1. Quê hương (danh từ): Đất Nước, nói về một Đất nước mà trong đó có quê (làng, cái nhà) mà mình đã được sinh ra.(Wiktionary)
.
“Trời sinh ra bác Tản Đà/ Quê hương thời có cửa nhà thì không” (Thú ăn chơi – Tản Đà).
“Ai có biết làm sao nói được/ Lòng tha hương trằn trọc nhớ quê hương” (Tổ quốc – Huy Cận)
.
2. Trong tùy bút “Lòng yêu nước” của nhà văn Nga Ilya Grigoryevich Ehrenburg (1891- 1967) có viết: “Lòng yêu nước ban đầu là lòng yêu những vật tầm thường nhất: yêu cái cây trồng ở trước nhà, yêu cái phố nhỏ đổ ra bờ sông, yêu vị thơm chua chát của trái lê mùa thu hay mùa có thảo nguyên có hơi rượu mạnh…
Dòng suối đổ vào sông, sông đổ vào dải trường giang Volga, con sông Volga đi ra bể. Lòng yêu nhà, yêu hàng xóm, yêu miền quê trở nên lòng yêu Tổ quốc”. [1]
.
3. Quê hương qua trích đoạn thơ:
.
Quê hương chiếc đò nho nhỏ
Qua sông kham khổ từng ngày
Thân me vai gầy gánh khổ
Thương con chịu nỗi đắng cay
.
Quê hương đong đầy thương nhớ
Ngoại nhai tóm tém trầu cay
Mẹ mày. thằng cháu mất dạy
Rong chơi lêu lỏng suốt ngày
.
Quê hương làm sao không nhớ?
Cầu tre lắt lẻo sớm mai
Đường vui trống trường réo gọi
Cây cao chim hót từng bầy
Chia nhau từng viên đạn nhỏ
Bịt mắt kiếm tìm. Ai đây?
Chia nhau nỗi lo thầy gọi
Nhói đau thước khẽ bàn tay
Chia nhau trái me keo ngọt
Chia nhau từng tiếng cười đầy
.
Quê hương làm sao không nhớ?
Dòng sông tuổi trẻ mênh mang
Bần de phóng đùng nước mát
Lặn tìm chân bắt la vang
Bờ sông chị khàn tiếng gọi
Vết roi cha đánh. tím bầm!
(Quê Hương – Nguyên Lạc)
.
Trên là vài ý nghĩ của tôi về hai chữ “quê hương”, giờ mời các bạn ghé thăm Đại Ngãi quê tôi.
.
GIỚI THIỆU XÃ ĐẠI NGÃI
.
1. Xã Đại Ngãi
.
– Đại Ngãi thuộc tỉnh Sóc Trăng ( trước 1975 gọi là Ba Xuyên) còn được gọi là Vàm Tấn – Vàm (Danh từ): cửa sông, nơi rạch chảy ra sông hoặc sông con chảy ra sông lớn.
– Có ý kiến cho rằng tên gọi Vàm Tấn bắt nguồn từ chữ Khmer là “Peám Senn” (Peám: Vàm, Senn: Tấn).
.
“Đất Sóc Trăng khô cằn nước mặn
Tôi ra Vàm Tấn đổi nước về xài
Về nhà sau trước không ai
Hỏi ra bậu đã theo trai mất rồi” (ca dao)
.
Nữ:
Hò ơ ớ ơ …
Thấy anh hay chữ, em hỏi thử đôi lời
Sao trên trời mấy cái, nhái ngoài ruộng mấy con,
đất Ba Xuyên một mẫu mấy sào (ơ ờ)
Hò ơ ớ ơ …
Anh mà đối đặng … gái má đào thương anh (ơ ơ)…
.
Nam:
Hò ơ ớ ơ …
Thấy em đố tức, anh nói phức cho rồi
Sao trên trời sao vua chín cái, nhái ngoài ruộng bắt cặp hai con,
đất Ba xuyên một mẫu mười sào (ơ ờ)
Hò ơ ớ ơ ơ…
Anh đà đối đặng… gái má đào tính sao ? (ơ ơ)…
.
2. Địa Lý Tỉnh Sóc Trăng
.
Sóc Trăng là tỉnh ven biển, diện tích 3,312 km2, có đường bờ biển dài 72 km; dân số 1.3 triệu. Là tỉnh đứng thứ 6 cả về diện tích và dân số trong Đồng Bằng Sông Cửu Long, phía Tây Bắc giáp tỉnh Hậu Giang, phía Tây Nam giáp tỉnh Bạc Liêu, phía Đông Bắc giáp tỉnh Trà Vinh, phía Đông và Đông Nam giáp Biển Đông, phía hữu ngạn Sông Hậu, đổ ra Biển Đông qua hai cửa Định An và Trần Đề, là vùng nước lợ cũng là nơi có rất nhiều tôm cá. Tên gọi Sóc Trăng có nguồn từ tiếng Khmer, Srok là “xứ,” Kh’leang là “vựa” nơi có đông đảo người Khmer, người Hoa và người Việt chung sống. Sóc Trăng cách Cần Thơ 62 km, cách Sài Gòn 230 km.
Đất đai của Sóc Trăng màu mỡ, thích hợp cho việc trồng lúa, mía, đậu nành, bắp, hành, tỏi và các loại cây trái như bưởi, xoài, sầu riêng… Hiện đất nông nghiệp chiếm 82%, đất lâm nghiệp có rừng chiếm 3,43%, đất nuôi trồng thuỷ sản chiếm 16.42%, đất làm muối chiếm 0.97%. Sóc Trăng còn có nguồn tài nguyên rừng ngập mặn với các loài cây như tràm, bần, giá, vẹt, đước và dừa nước.
Sóc Trăng còn có con Sông Nguyệt/Sông Maspero chảy qua thị xã Sóc Trăng cùng với hệ thống kinh rạch với thuỷ triều lên xuống 2 lần trong ngày với mực triều dao động trung bình từ 0.4 m đến 1m. Sông Nguyệt cũng là nơi diễn ra các cuộc đua Ghe Ngo, một thứ lễ hội truyền thống của người Khmer diễn ra vào tháng 11 hàng năm.
.
đua Ghe Ngo tại Sóc Trăng
.
3. Giới thiệu về Đại Ngãi
Xin được trích đoạn lời trả lời của nhà thơ Trần Phù Thế gởi đến cuộc phỏng vấn của nhà văn Hai Trầu/ Lương Thư Trung để giới thiệu về Đại Ngãi:
.
[…Đại Ngãi huộc tỉnh Sóc Trăng nằm trên trục lộ từ Sóc Trăng đi Đại Ngãi, quận Long Phú, có đi qua làng Hậu Thạnh. Hậu Thạnh là nơi tôi chào đời. Ba tôi làm ruộng và Má tôi buôn hàng xén tại nhà. Khi lớn lên, nghe Ba tôi kể lại: Năm 1945 người Miên từ xã Văn Cơ ” Nổi Dậy “. Họ uống rượu say, mắt đỏ ngầu, tay cầm Mã Tấu gặp người Việt lá chém liền. Họ đi đến đâu là cướp của, đốt nhà. Ba tôi là nạn nhân của chúng, nhưng may mắn chạy thoát được với vết thương trí mạng trên lưng vai trái. Sau đó Ba Má tôi dọn nhà ra chợ Đại Ngãi (nằm trên ngã ba sông Bassac và sông Đại Ngãi) cách Hậu Thạnh ba cây số. Thời đó, chợ Đại Ngãi rất trù phú, đông dân, trên bến dưới thuyền, là nơi tụ hội của giới thương hồ từ Long Phú, cù lao Dung lên, Cầu Quan, Trà Ôn qua và Kế Sách xuống... ]
.
Trong bài thơ “Bậu về” của Trần Phù Thế dưới đây, in trong thi phẩm “Gọi Khan Giọng Tình” có nhắc đến Đại Ngãi
.
bậu còn
chơi ác nói cười
những câu dí dỏm
chết đời ta chưa
bậu về nhớ nắng thương mưa
hình như cây cỏ cũng ưa bậu về
.
như là có chút nắng hè
như là có cả
chùm me chua lừng
như là xoài tượng thơm giòn
thêm vào nước mắm chút đường khó quên.
.
bậu về
Đại Ngãi mình ên
bỏ quên kẹp tóc
bắt đền tội ta
bậu quên là tại bậu mà
tại sao bậu bắt đền ta một đời
tội này không chịu bậu ơi !
(Bậu về – Trần Phù Thế)
.
4. Đại Ngãi qua bài viết của tôi
.
” Quê tôi, xã Đại Ngãi (Vàm Tấn) huyện Long Phú – Sóc Trăng, tọa lạc ở bờ nam sông Hậu, đối diện ngang sông bờ bắc là Huyện Cầu Kè – Vĩnh Long. Đối diện giữa sông, bên phải là cù lao Dung chạy dài tới cửa biển Đông, bên trái là nhiều cồn nhỏ nổi song song nhau (với những bờ cây bần chạy dọc theo bãi) giữa là khe nước chảy êm đềm. (Dải đất nổi giữa giòng sông, lớn gọi là Cù Lao, nhỏ gọi là Cồn. Vàm là đất tại ngã ba sông)
Dòng sông Hậu từ Long Xuyên, Cần Thơ chảy ra biển.
Trước khi đến xã Đại Ngãi khoảng 3 km (2 miles) là xã Nhơn Mỹ, thuộc huyện Kệ Sách. Chợ xã Nhơn Mỹ tọa lạc trên bờ đất tại ngã ba bờ phải sông Hậu (hướng chạy ra biển) và rạch Nhơn Mỹ. Phía đối diện chợ Nhơn Mỹ, giữa sông Hậu là cồn Quốc Gia: Đây là nơi ông TT Nguyễn Văn Thiệu VNCH có lần ghé thăm, vì nó nổi tiếng trù phú với vườn sầu riêng và chôm chôm.
Cù Lao Dung – dãi đất dài nổi lên giữa sông, bắt đầu từ Đại Ngãi chạy ra tận cửa biển Trần Đề, dài ước lượng khoảng 20 – 24 cây số (12 – 14 miles (?) ngang độ 1/2 cây số ( 1/4 mile) – với “trại cải tạo” Cồn Cát nổi tiếng dành cho các sĩ quan “Ngụy” và những người vượt biển bị bắt, khoảng từ tháng 5 năm 1975 cho đến hết thập niên 80, lúc tôi còn ở Việt Nam. Đây cũng là nơi gia đình tôi “chém vè”, chờ đến giữa đêm tối không trăng, lên ghe con thả theo nước ròng trôi ra cửa biển để không gây tiếng động, kẻo Công An biên phòng phát hiện và bắn chẳng nương.
Trong Cù Lao Dung và trong Đại Ngãi có rất nhiều rạch nhỏ, hai bên bãi bùn có rất nhiều dừa nước, bắt ngang rạch bởi những cầu đòn tre lắt léo. Nơi bãi bùn có nhiều còng gió, cá thòi lòi, ốc len… và các bụi ô rô, cóc kèn…”
[Về Một Dòng Sông – Nguyên Lạc ]
.
GIỚI THIỆU VÀI ĐẶC SẢN CỦA ĐẠI NGÃI
Xin được ghi ra đây trước và sẵn dịp giới thiệu vài đặc sản của vùng Đại Ngãi nói riêng – Nam bộ nói chung – vì có vài điểm cần giải thích cho bài thơ ghi bên dưới của tôi: “Nhớ Về Đại Ngãi”
.
1. Con Còng gíó:
Còng gió (Ocypode ceratophthalma) là một loài còng trong họ Ocypodidae. Gọi còng gió, vì đây là loại còng chạy rất nhanh, tưởng có thể bằng cả tốc độ của gió. Mặc dù có bộ dạng nhỏ thó, nhưng đôi càng của còng gió đực (một lớn, một nhỏ) lại là vũ khí hết sức đáng sợ, càng nó rất khỏe, mép càng sắc như dao, kẹp có thể đứt thịt. Ở quê tôi, Đại Ngãi, Hậu Giang nơi các sông rạch, còng gió lớn cỡ ngón tay màu xanh blue rất đẹp.
.
Con còng gió
Thịt còng gió – ở các làng chài ven biển – làm sạch có thể chế biến thành nhiều món ngon. Cho dầu ăn vào chảo, phi hành, đổ còng vào sẽ thành món chiên giòn khoái khẩu.Còng gió có thể đơn giản chỉ là rang với nước mắm cốt cho ngấm vào thịt còng gió, đến khi khô lại là ăn được. Món còng gió rang nước mắm vô cùng lạ miệng. Còng gió rang cả mai nhưng vỏ mỏng và giòn tan, nhai cả con để tận hưởng vị ngọt mằn mặn thơm lừng. Càng nhai vị ngọt càng ngon cho đến khi còng gió tan hết trong miệng.
.
2. Cá thòi lòi:
Cá thòi lòi ( Periophthalmodon schlosseri), là một loài cá thuộc họ Cá bống trắng (Gobiidae), Cá thòi lòi phổ biến nhất dọc các bãi lầy ở cửa sông, không ngập quá 2 m nước Loài cá này sinh sống trong hang hốc vét ở bãi lầy. Khi thủy triều xuống thì cá chui ra, nhất là những ngày nắng ráo.
Cá có khả năng di chuyển trên mặt bùn khá nhanh, gần như chạy nhảy. Với hệ thống hô hấp bằng phổi cá thòi lòi có thể thở trên cạn. Khi dưới nước thì dùng mang.
.
3. Ốc len
.
Ốc len (Cerithidea obtusa) là loài ốc thuộc họ Potamididae, sống tự nhiên ở những khu rừng ngập mặn hay các bãi bồi ven biển, đây là loại đặc sản quý có giá trị dinh dưỡng cao được dùng làm nguyên liệu chế biến nhiều món ăn ngon như: ốc len hầm nước dừa.
Ở vùng Đại Ngãi quê chúng tôi, đến mùa ốc len ken đặc xung quanh các bụi dừa nước.
@. Mời các bạn thưởng thức món “Ốc len hầm dừa” của Tạ Phong Tần:
.
“…Lấy tay bốc con ốc lên, kê miệng vô hút cái rột cho con ốc chạy tọt vô miệng, cái vị béo, vị mằn mặn, ngòn ngọt của nước cốt dừa hòa với mùi thơm của sả, vị ngon lạ lùng đặc biệt của con ốc len mà không có loại ốc nào có, tạo thành một vị ngon riêng không thể diễn tả bằng lời được, mà hãy cứ tự mình nấu rồi tự mình thưởng thức thì mới hiểu vì sao giá ốc len bán ở trên trời. Cho nên, người miền Tây có câu: “Ai mà muốn học thổi kèn/ Nạo dừa hầm với ốc len ăn hoài”.
Ăn ốc len hầm dừa chủ yếu là húp nước cốt dừa và “hửi” thêm mùi vị con ốc, thiệt là giá cho cái sự “hửi” này hơi bị cao chót vót, người nghèo ngó lên trẹo cổ như chơi.
Ăn ốc len phải thưởng thức từ từ mới thấm hết cái vị ngon của nó. Một phần vì nó quá ít, ăn như Trư Bát Giới ăn nhân sâm thì ở đâu có mà ăn, một phần vì con ốc nhỏ mà phải cầm lên mút mút, hút hút cho nó chạy thịt ra, làm sao mà nhanh được. Đôi khi chặt đuôi ốc cạn quá, hút ốc không ra, nước cốt dừa trong con ốc khô rang, không hút nữa mà bỏ con ốc trở vô chén của mình, cho nó thấm nước cốt dừa trở lại, một lúc sau lại bốc lên hút tiếp… “
(“Ốc len hầm dừa” của Tạ Phong Tần – Báo Trẻ online)
Con ổc len
.
4. Ba khía/ mắm ba khía:
.
– Con Ba khía (Freshwater Crabs/Three-striped crab): Danh pháp khoa học là Sesarma mederi, là một loại cua nhỏ trong họ nhà Sesarmidae.
Con ba khía là loài giáp xác có tám chân, hai càng, toàn thân có lông. Loài này có nhiều ở vùng Nam Bộ của nước ta. Ba khía sống tập trung ở vùng nước lợ, nước mặn trải từ Cần Thơ đến Sóc Trăng, Cà Mau, nhiều nhất ở U Minh. Do có ba gạch ở trên lưng nên được đặt tên ba khía. Đặc biệt, loài này sống nhiều nhất ở vùng bãi bùn nước lợ. Nó là nguyên liệu cho món mắm ba khía trứ danh ở miền Tây nam bộ.
Con Ba khía
Mắm ba khía
.
– Mắm ba khía, là loại mắm được làm từ con Ba khía.
Bài viết sau đây dành cho các bạn ở thành phố không biết về con ba khía/ mắm ba khía mà tôi có liên hệ đến trong bài thơ trên: “Chợ Tình” Ba Khía Cà Mau của Nguyễn thị Việt Hà.
[ Hàng năm, vào mùa nước lên (khoảng từ tháng tám đến tháng mười Âm lịch), ở Cà Mau, ba khía từ những hang ổ dày đặc dưới gốc đước, gốc mắm bị chìm trong nước, ba khía nhiều không biết bao nhiêu mà kể chen chúc nhau bám vào những thân đước, thân mắm. Gọi là “Chợ tình ba khía” cho vui chứ thực ra là ở thời điểm này ba khía quần hội cả một vùng, cư dân nơi này gọi là “ba khía hội”.
Họ hàng ba khía sống tập trung ở môi trường nước lợ, nơi các cửa sông, cửa rạch đổ ra biển, ba khía có nhiều nhất ở các tỉnh Cà Mau, Bạc Liêu, Sóc Trăng,… Thoạt trông ba khía rất giống cua đồng hoặc giống con chù ụ ở biển Ba Động Trà Vinh nhưng vóc dáng nhỏ hơn, càng và ngoe dẹp có thêm ba vạch ở trên chiếc mai màu sẫm nên “chết danh” ba khía. Rất ngộ, đúng cữ tháng 8, tháng 10 hằng năm, từng cặp ba khía lềnh khềnh bu kín gốc tràm, mắm. Mỗi năm chúng chỉ xuất hiện khoảng 3 ngày, sau đó chúng tản đi đâu hết và năm sau đến hẹn lại lên. Chúng bám nhau sát rạt từng đôi, từng đôi một dày đặc cả một vùng như thể tổ chức “đám cưới” tập thể vậy. Tầm đó ba khía giao phối, sinh sản, cũng là lúc thịt ba khía chắc và ngon nhất. Nét độc đáo của chợ tình Ba Khía ở Cà Mau đã tạo nên điểm nhấn đặc biệt cho vùng đất này.
Ngay tại vùng đất mũi cũng có nhiều sự phân chia vùng sinh sống của ba khía. Chỉ có vùng Rạch Gốc, Tân Ân là ba khía có thịt ngon, thơm và chắc nịch. Ba khía vùng này ăn trái đước, vẹt, đặc biệt là trái mắm đen – thứ cây có nhiều rễ bám sâu vào lòng đất của vùng bãi bồi, hàng năm rụng trái làm đen cả nước – nên gạch son nhiều và thịt chắc, ăn rất thơm. Những người sống ở Rạch Gốc cho biết ba khía có hai loại ngon: Một là loại có càng to màu xanh chuyên sống trong hang, dưới nước và trong các khu rừng ngập mặn. Hai là loại ba khía này càng nhỏ, thân mảnh nhưng chúng kẹp rất đau. Còn loại ba khía ăn trái mắm trắng có gạch màu tro thì ăn không ngon bằng.
Vào mùa ba khía “sánh đôi” những người dân chuyên nghề “làm ba khía” tứ phương gói ghém gạo, muối, nước, nóp ngủ, khạp da bò, khạp ba vú… chất xuống xuồng, neo đậu ở bìa rừng đợi đêm xuống, khi nước lớn ba khía kéo hàng đàn ra. Ban đêm ở rừng “muỗi kêu như sáo thổi”, những người thợ “săn ba khía” mặc áo dày, che kín mặt mũi, chân tay, lấy vỏ tràm hay lá mắm khô xé nhỏ độn bên trong áo chống muỗi, cầm đuốc, bơi xuồng bắt đầu “mùa săn”. Chỉ cần ghé xuồng vào các gốc đước, mắm ba khía bám đầy không có chỗ trống vuốt nhẹ những “anh – chị” ba khía còn đang say sưa tình tự, cho vào khạp hoặc cần xé đặt sẵn trên khoang. Trong một con nước, một người có kinh nghiệm và cần mẫn có thể bắt được một khạp đầy ba khía. Ngày trước, nghề làm ba khía bị xem là nghề hạ bạc của con nhà nghèo, bởi muốn bắt phải ngủ rừng, ăn cơm bờ bụi, chịu muỗi vắt bu kín mình mẩy. Ca dao cũng ghi dấu mùa “săn ba khía”:
“Tháng bảy nước chảy Cà Mau
Tháng mười ba khía hội kéo nhau đi làm
U Minh, Rạch Gốc, rừng tràm
Muỗi kêu kệ muỗi tao ham ba khía rồi.”
Người ta còn gọi Cà Mau là xứ sở con ba khía bởi nó gắn bó với người nông dân ở đây từ hồi lập cõi mở đất để đến bây giờ món ba khía muối trở thành món “lừng danh Cà Mau”. Muối ba khía cũng phải có kinh nghiệm và kỹ thuật, quá trình đơn giản nhưng cách pha nước muối thế nào cho vừa là khó, nếu muối chưa đủ mặn, con ba khía sẽ bủng, không để được lâu. Cho nên phải qua hai lần nước muối, con ba khía mới giữ được màu sắc như khi còn sống, thịt vẫn chắc, mặn dịu, ăn ngon. Kinh nghiệm pha nước muối là bỏ hạt cơm nguội vào, nếu hạt cơm nổi lờ đờ là được. Nước muối chuẩn bị xong thì cho ba khía vào khạp da bò hoặc khạp ba vú ngâm. Tuyệt đối không để nước mưa lọt vào nếu không ba khía sẽ bị “trớ”, có mùi hôi. Phần nước muối còn lại trong khạp khi đã ăn hoặc bán hết ba khía dùng để nấu nước mắm rất ngon.
Từ vài năm nay, người ta chế biến thêm một vài món từ ba khía nhằm phục vụ nhu cầu ăn uống đang đòi hỏi ngày càng đa dạng: Ba khía rang me, ba khía rang mỡ hành, ba khía luộc “khan” chấm muối tiêu chanh ớt, cháo ba khía, gỏi ba khía… Độc đáo hơn còn có món canh chua ba khía.
Lần về Rạch Gốc, cậu tôi hì hụi nấu canh chua ba khía đãi cháu. Trước tiên, rửa ba khía thật sạch đất bùn, sau đó bóc yếm và bẻ đôi làm hai nửa, tách cả càng, gọng. Tất cả ướp cùng hành lá giã nhuyễn, thêm đường, chút nước mắm, ít tiêu vào trộn đều. Bắc chảo dầu lên bếp, phi tỏi thật thơm rồi cho ba khía đã ướp vào xào sơ. Khi mùi thơm của ba khía bốc lên cho cà chua đã bổ miếng vào, đảo đều và nhanh tay cho nước sôi để ngội với lượng vừa ăn. Đợi nồi canh sôi bùng lên, lọc trái giác và một ít bắp chuối đã thái chỉ vào. Ba khía chín, nêm gia vị lại lần nữa cho vừa miệng rồi tắt bếp, rắc thêm tiêu. Lần đầu tiên được ăn món canh chua lạ miệng đó, tôi “quất” một bữa no “đã đời”.
…
Nói gì thì nói, ba khía có chế biến thành trăm món ngon khác thì cũng không “qua mặt” được món nguyên thủy: Ba khía muối!
Nếu giản dị thì xúc tô cơm nguội, vừa ăn vừa lấy tay bóc con ba khía muối, nút càng chùn chụt đúng điệu dân miền Tây rặt. Công phu hơn thì trộn Ba Khía bằng nước cơm còn ấm, tách yếm ba khía, bẻ ngoe, càng ướp tỏi ớt giã nhuyễn, chút đường cát trắng, thêm nước cốt chanh, xắt trái khế thiệt mỏng hay đập dập mấy trái cóc non bỏ vô tô trộn đều, để một chút cho Ba Khía thấm gia vị… Khi ăn nhất định phải có đầy đủ rau ăn kèm thì ăn món Ba Khía mới “bắt”, đó là dưa leo, chuối chát, rau thơm, rau răm, rau dừa, bông lục bình… Nhiều người ăn cầu kì còn phi mỡ tỏi cho thơm rồi tưới lên tô ba khía đã ướp để tăng độ béo. Món ba khía lúc này đã trở nên tuyệt hảo, ngon nhức răng. Dưa bồn bồn nhận bằng nước vo gạo ăn với ba khía Rạch Gốc thì ăn “chết bỏ”.
Ba khía giờ không còn là món nhà nghèo mà đã được vinh danh trong menu ở các nhà hàng, khách sạn nhưng tình thiệt ăn ba khía trong nhà lá, chan nước chắt cơm, uống nước mưa hay xúc tô cơm nguội với vài con ba khía ngồi dưới gốc dừa vừa ăn vừa bốc mới cảm nhận đầy đủ chất ruộng đồng sông nước miền Tây. Dân miền Τâу quen sống thanh bạch, mộc mạc; сó lẽ vì thế mà ngaу đến cả món mắm ba khía đặc sản cũng rất đỗi bình dị với dân quê. Tình thiệt, mắm ba khía chỉ ngоn nhất khi ăn với… cơm nguội!
Mấy năm gần đây ba khía Cà Mau không còn nhiều như trước, rừng bãi bồi bị phá, trái mắm đen thưa rụng vì cây mắm bị triệt hạ nhiều, ba khía “tủi thân” rủ nhau đi đâu càng ngày càng vắng. Tự dưng nghe nhói lòng khi nghĩ vào những ngày 30 tháng 8 hoặc tháng 9 âm lịch tới, Cà Mau không còn “chợ tình” ba khía thì Cà Mau có còn là Cà Mau… ] – Nguyễn thị Việt Hà
(Hình con ba khía)
.
5. Cá linh
.
Cá linh hay còn gọi là linh ngư (Henicorhynchus) là chi cá thuộc họ Cá chép (Ciprinidae). Chúng là các loài cá trắng nên chỉ thích hợp môi trường nước chảy.
Cá linh là loài cá có kích thước cơ thể nhỏ bé, một con cá linh khi trưởng thành có kích thước cơ thể chỉ to hơn 2 ngón tay của trẻ nhỏ. Cá linh nhỏ thì chỉ chỉ to bằng đầu của chiếc đũa.
Ở đồng bằng sông Cửu Long, cá linh thùy (Henicorhynchus siamensis) là loài cá phổ biến. Vào mùa nước nổi, chúng bơi khắp các đồng rộng, sông dài, kinh to, rạch nhỏ. Chúng có nguồn gốc từ Biển Hồ của Campuchia .
Hàng năm, khoảng tháng tháng 5 tháng 6 âm lịch đây là khoảng thời gian sinh đẻ của cá linh. Cá linh là loài đẻ trứng, chúng thường đẻ trứng ở khu vực sông Mê Kông thuộc vùng đất Campuchia. Một lần sinh sản cá linh có thể sinh sản được khoảng 23.500 – 90.500 trứng. Sau khi trứng đẻ, khoảng nửa ngày là cá sẽ nở thành cá bột.
Khoảng rằm tháng 7 âm lịch mùa nước lũ, cá linh sẽ trôi từ thượng nguồn về phía khu vực miền Tây của nước ta, các tỉnh thành An Giang, Đồng Tháp và khu vực đồng bằng sông Cửu Long. Tới mùa cả linh tràn về từ Biển Hồ quá nhiều, phải làm mắm, ủ nước mắm. Cá linh kho, Lẩu cá linh bông điên điển, Cá linh chiên bột … là những món ăn ngon có tiếng.
.
“Trong tiếng Khmer gọi trêy lênh hoặc trêy rial. Thuật ngữ cá linh được nhắc đến từ thời phong kiến ở Việt Nam do ghi chép của phương Tây như sau: Nguyễn Ánh từ Vàm Nao [con sông nối Tiền Giang với Hậu Giang ở An Giang], nhưng vì thấy cá này [linh] nhảy vào thuyền, người sanh nghi nên không đi, sau rõ lại nếu đi thì khốn vì có binh phục của Tây Sơn tại Thủ Chiến Sai [Chợ Thủ, ngang đầu Cù lao Giêng, nay thuộc huyện Chợ Mới], vì vậy người [Nguyễn Ánh] đặt tên (cá ấy) là cá linh để tri ân.” [Wikipedia]
Cá linh
.
6. Cá cháy
.
Cá cháy: Có tên khoa học là Macrura ruversil, cá cháy cùng họ với cá trích nhưng có hình dáng lớn hơn, thường từ biển vào sông để sinh sản. Thông thường, cá cháy chỉ xuất hiện ở các lưu vực cuối nguồn sông Hậu là Vàm Tấn (nay là Đại Ngãi, Sóc Trăng), Tân Dinh (nay là Tân Quy, Cầu Kè, Trà Vinh) và nhiều nhất là ở Trà Ôn (Vĩnh Long).
Cá cháy Vàm Tấn con to nhất từ 1 đến 2kg, thân hình hơi dẹp, dài, xương mềm và có vảy phảng phất màu trắng bạc. Một số loại cá cháy cái mang cặp trứng to ở khoang bụng. Trứng cá cháy không chỉ hấp dẫn bởi vị béo không ngậy mà còn ở hương vị thơm ngon khiến nhiều du khách thèm thuồng muốn nếm thử.
Đặc điểm của con cá cháy là khi bắt lên khỏi mặt nước sẽ mau chết. Do đó, người đánh bắt phải nhanh chóng chuyển cá vào bờ càng sớm càng tốt, nếu cá ươn thịt sẽ mất hết giá trị.
.
Hình Cá cháy
.
Xin trích đoạn ra đây bài viết lý thú về cá cháy:
[… Cá cháy: Quà tặng một thời của sông Hậu
Theo bộ Đại Nam quấc âm tự vị của Huỳnh Tịnh Của thì cá cháy là một thứ cá to vảy, nhiều xương, cái bụng đầy những trứng.
Theo Wikipedia: Cá cháy thân dẹp, có một kỳ (vây) ở lưng, 2 vây ở mang và 3 vây ở bung đuôi hình chữ V. Chi cá cháy có hai loại: cá nam và cá cháy bẹ. Địa chí Cần Thơ thì lại ghi: “Cần Thơ có những loài cá nổi tiếng, nhất là cá cháy. Cá cháy trước năm 1956 vẫn còn. Khoảng tháng 9 – 10 âm lịch cá xuất hiện nhiều trên sông Hậu từ Cái Côn đến TP. Cần Thơ, nhưng từ đó đến nay thì không còn nữa”.
Thật ra, cá cháy là loại cá có thân hình hơi dẹp và dài, vảy to óng ánh, con to nặng hơn 3kg và dài đến 4-5 dm. Cá cháy thường đi tìn bạn tình và kiến ăn trên sông vào mùa gió chướng, nhất là lúc sương mù dày đặc, trước và sau tết Nguyên Đán. Đó chính là thời điểm bà con ngư dân tập trung khai thác.
Lê Tân, tác giả cuốn Văn hóa ẩm thực ở Trà Vinh, cho rằng, cá cháy là một loài cá biển mang nét đặc trưng riêng, gắn liền với địa danh cầu Quan, thuộc huyện Tiểu Cần, tỉnh Trà Vinh. Có lẽ loài cá này do phù hợp với môi trường sinh thái vùng giáp nước để tìm bạn giao phối và sau đó xuôi về miệt biển sinh sống ở vùng ngập mặn. Chính nhờ vậy mà cá cháy Cầu Quan thơm ngon hơn các vùng khác trên sông Hậu. Ý kiến này đáng tin cậy vì tác giả là người đã từng sống ở Trà Vinh và từng thưởng thức món cá cháy. Tuy nhiên, bảo rằng cá cháy Cầu Quan thơm ngon hơn các nơi khác thì khó thuyết phục được nhiều người.
Tác giả Lưu Văn Nam thì lại mô tả cá cháy như cá trắm, thân thon dài, sống ở vùng nước lợ, đặc biệt trên sông Bassac. Cá về vào khoảng vài tháng trước và sau tết khi nước mặn từ cửa biển đổ vào vùng Tiểu Cần, vàm Cầu Kè (Trà Vinh). Trời cuối đông, đầu xuân, sương mù như từ mặt đất bốc lên nhuộm trắng mặt sông, những con cá cháy trừng lên mặt nước đớp móng liên tục.
Cụ Vương Hồng Sển cho rằng, cá cháy từ biển lên sông Hậu Giang đẻ trứng sanh con, có trong mùa gần Tết và chỉ xuất hiện nhiều từ Vàm Tấn (Đại Ngãi – Sóc Trăng) đến Trà Ôn (Cần Thơ) và miệt Cái Côn, Cái Cau vùng Kế Sách (Sóc Trăng) chứ không lên xa hơn nữa.
Qua nhiều tài liệu, chúng ta có thể xác định con cá cháy không những phân bố nhiều ở Đại Ngãi, Cái Côn (Sóc Trăng), Cầu Quan (Trà Vinh), Trà Ôn (Vĩnh Long)…mà còn xuất hiện ở Cần Thơ, cầu Kè (Trà Vinh), những nơi sông sâu nước chảy và vùng giáp biển.
Ngày nay, đối với những người lớn tuổi ở miền Tây, khi nhắc đến con cá cháy hình như ai cũng tiếc nuối vì loài cá này tự nhiên đã bỏ xứ ra đi một cách kỳ bí giống như một huyền thoại. Hơn nửa thế kỷ trôi qua, những người đáng bắt trên sông Hậu ít khi nào tìm lại được hình bóng con cá cháy.
Tuy chúng đã biến mất khỏi Hậu Giang, nhưng trong kí ức của nhiều người miền Tây vẫn còn in đậm hình ảnh của con cá cháy. Nhiều câu chuyện về cá cháy vẫn tiếp tục râm ran trong giới sành điệu ẩm thực phương Nam. Đúng là “Sông dài cá lội biệt tăm. Vị ngon còn đó béo bùi vấn vương”.
Món ăn “danh bất hư truyền”
Xưa kia, người dân Trà Ôn rất hãnh diện về nguồn sản vật trời cho:
Trà Ôn cá cháy lạ kỳ
Nấu rim, kho mặn, món gì cũng ngon
Bản thân tôi hồi nhỏ cũng được thưởng thức vài lần. Đúng là ngon tuyện. Có thể nói thịt cá cháy làm gì cũng ngon: nướng, luộc, kho mẳn bằm xoài, kho nước dừa, kho rim với mía, làm gỏi, nấu nước lèo chan bún, món nào cũng có đẳng cấp. Tuyệt nhất là món mắm cá cháy, một thứ mắm “danh bất hư truyền”. Tuy nhiên, phiền một nỗi là cá quá nhiều xương nên trẻ con và một số người chưa quen giẻ xương không thể tận hưởng được mùi vị của cá mà chỉ ăn được trứng và dùng nước súp để chan bún.
Với cá cháy, người nấu nước lèo hoặc kho mẳn chỉ cần cho thêm rau củ mà không cần đường hoặc bột ngọt vì bản thân thịt của nó đã ngọt và ngọt một cách đậm đà. Riêng đối với món ko rim, đòi hỏi người làm phải chăm chút tỉ mẩn. Muốn cho nồi cá rục xương, chúng phải chọn cho được mía lau đem về chặc khúc, chẻ ra từng lát mỏng xếp độn dưới đáy nồi, đổ nước vào và chụm lửa riu rui khoảng vài tiếng đồng hồ. Có người còn sử dụng bí quyết riêng, chỉ ướp cá với muối và nước màu trước khi kho, tuyện đối không dùng đến nước mắm.
Cụ Vương Hồng Sển cho biết tại Sóc Trăng, nhiền bà nội trợ khéo tay đã biết cách tách thịt cá khỏi xương bằng cách dùng đũa gỡ vảy cho sạch rồi chụm hai chiếc đũa trên cổ con cá, nhấn mạnh và kéo mạnh đũa xuống đuôi cá. Tức thì xương theo xương, thịt theo thịt…Ngoài ra, còn nhiều cách làm cho cá bớt xương, đặc biệt là bí quyết kho sao cho xương mềm rệu. Con cá cháy cái có buồng trứng rất to. Đó là bộ phận hấp dẫn nhất đối với người mê cá cháy, tuy nhiên không được ăn nhiều vì trứng có chất dầu dễ làm ảnh hưởng đến tiêu hóa. Cụ Vương rất mê trứng cá, cụ ca ngợi trứng cá là món “quốc hồn”. Chúng ta hãy nghe cụ diễn tả: “Một khứa cá cháy có trứng, kho một lửa, ăn và với bún, ớt xoài chua với một mớ giá đậu xanh lót dưới tô thì đổi với hộp caviar tôi không đổi”.
Đặc điểm của con cá cháy là khi bắt lên khỏi mặt nước sẽ chết ngay. Do đó, người đánh bắt phải nhanh chóng chuyển cá vào bờ càng sớm càng tốt, nếu cá ươn thịt sẽ mất hết giá trị. Cũng theo cụ Vương Hồng Sển, cá cháy đánh bắt ở Cần Thơ sẽ kéo lưới vào lúc chạng vạng, ai muốn ăn phải đợi tới khuya. Còn cá cháy ở Vàm Tấn (Sóc Trăng) thì lưới vào sáng sớm nên việc mua bán thuận lợi hơn, ăn cá tươi ngon hơn. Vì cá cháy quá ngon, trứng cá cháy quá bùi nên có một nhà thơ nào đó đã cảm hứng:
Thơm tho khói thuốc mùi Cao Lãnh Cá cháy bùi ngon vị Sóc Trăng
Giờ đây con cá cháy miền Hậu Giang chỉ còn trong hoài niệm.Tuy chúng đã biến mất khỏi Hậu Giang, nhưng trong kí ức của nhiều người miền Tây vẫn còn in đậm hình ảnh của con cá cháy.
Hy vọng một ngày nào đó cá cháy sẽ quay về…]- (Trích nguồn: Cá Cháy Và Sự Ra Đi Kỳ Bí Của Cá Cháy- Báo Kiến Thức ngày nay số 820 ra ngày 20/05/2013) [3]
@. Xin ghi thêm vài hàng tư liệu cá nhân:
– Về “cá cháy”: Tôi nghe ba má tôi kể, khoảng nâm 40-50, vì cá rất quí và vì cá mau chết, khi vớt lên khỏi nước “lợ”. các người đánh lưới được cá cháy giữa khuya phải vác cá – có chứa nước- chạy bộ từ Đại Ngãi đền Sóc Trăng – đường dài khoảng 19 Km – 12 miles cho kịp chợ sáng, vì nếu để đến sáng cá sẽ chết.
Cá cháy giờ đã “di cư” sang Malaysia – vì tàu bè động và sinh thái thay đổi (?)
– Cá Kèo nhiều đến đổi bể đăng, phải xả ra vì cákhông có giá trị kinh tế: Cá chỉ nấu cho heo ăn chứ người không ăn, vì quá ngán.
Ôi “thời oanh liệt nay còn đâu” [Nguyên Lạc]
Giờ đây con cá cháy miền Hậu Giang chỉ còn trong hoài niệm. Tuy chúng đã biến mất khỏi Hậu Giang, nhưng trong kí ức của nhiều người miền Tây vẫn còn in đậm hình ảnh của con cá cháy.
.
7. Cá bông lau
.
Cá bông lau
.
Cá bông lau có tên khoa học là Pangasius krempfi. Cá bông lau (“catfish” in English) là dòng cá da trơn, loài cá này không có vảy. Toàn bộ phần da của lưng và mặt trên đầy của cá có màu xanh lục. Phần mặt ngang có màu trắng sáng, càng gần bụng sẽ chuyển sang màu trắng sữa. Các vây của cá thường có màu xanh đen và một số vây hơi có sắc đỏ.
Cá dứa (cá tra bần)có tên khoa học là Pangasius kunyit. Đặc điểm về màu sắc của 2 loài cá này chính là cách để có thể dễ dàng phân biệt 2 loài cá này. Hai loài cá này cùng thuộc họ cá tra, cho nên việc hình dáng của chúng có nhiều nét giống nhau là điều đương nhiên. Dưới đây là một số điểm khác:
– Cá bông lau có phần da trắng và mịn, khi có ánh nắng mặt trời thường có màu ánh vàng lên rất đẹp. Phần vây lưng của cá bông lau thường có màu xanh lá cây. Vây đuôi của của chúng có màu vàng, khác biệt hẳn so với màu sắc của cá.Thân của cá bông lau thuôn dài và hơi dẹt về 2 bên. Phần bụng của cá bông lau khá thon, không bị phình giống như cá dứa
– Cá dứa màu sắc cơ thể có màu xám hơn so với cơ thể của cá bông lau. Cá dứa có phần vây đuôi màu vàng xanh, vây lưng màu xanh đen. Vây lưng của cá dứa nằm gần đầu, thông thường cao và có hình tam giác, khoảng 5-7 tia vây và 1-2 gai.
Tại Việt Nam, cá bông lau được tìm thấy nhiều ở khu vực đồng bằng sông Cửu Long, sông Cần Giờ và nhiều nhất là khu vực sông Hậu.
Cá có thể đạt kích thước lên đến 1.2m và nặng lên đến 14kg. Thông thường, các bông lau chỉ dài khoảng 60 – 90cm và nặng khoảng 7 – 8kg là phổ biến nhất.
Cá sống chủ yếu ở các khu vực sông lớn, nơi có vùng nước ngọt. Ngoài ra, vì chúng có tập tính di cư khi đến mùa sinh sản nên chúng có thể sống được ở vùng cửa sông nơi có nước lợ và nước mặn.
Cá bông lau là dòng cá đẻ trứng, thường sinh sản vào mùa mưa. Mùa đẻ trứng nhiều nhất của cá bông lau là vào khoảng tháng 5 cho tới tầm cuối tháng 8. Sau khi kết thúc chu kỳ sinh sản, chúng lại bắt đầu phân tán ngược lại dòng nước chính để sinh sống và tăng trưởng – tầm khoảng tháng 11 và tháng 12. Trung bình, một lần sinh sản, cá bông lau có thể đẻ được vài chục nghìn trứng và tỷ lệ nở khoảng 50 – 60%.
Thường cứ sau dịp Tết Nguyên Đán, cá bông lau bắt đầu xuất hiện nhiều ở sông Hậu và sông Tiền trải khắp các tỉnh An Giang, Đồng Tháp, Sóc Trăng, Trà Vinh, thành phố Cần Thơ. Vì vậy đây cũng là mùa người dân đi đánh bắt cá bông lau. Họ đi bủa lưới từ chạng vạng tối đến tận sáng sớm, với nguồn lợi tức có thể lên tới hàng chục Mỹ kim (trung bình $40) mỗi đêm.
Cá bông lau kho tiêu cháo cá bông lau, canh chua cá bông lau miền Nam là món ăn có tiếng. (Sưu tầm trên net)
.
8. Cá ba sa
Cũng nên phân biệt cá bông lau với cá ba sa: Cá ba sa, tên khoa học Pangasius bocourti, còn có tên gọi là cá giáo, cá sát/xác bụng, là loại cá da trơn trong họ Pangasiidae có giá trị kinh tế cao, được nuôi tập trung tại nhiều nơi.
Về ngoại hình, cá ba sa rất dễ phân biệt đối với các loài khác trong họ Cá tra. Thân ngắn hình thoi, hơi dẹp bên, lườn tròn, bụng to tích lũy nhiều mỡ, chiều dài tiêu chuẩn bằng 2,5 lần chiều cao thân. Đầu cá ba sa ngắn hơi tròn, dẹp đứng
Trở về nguồn gốc tên Việt của 3 nhóm cá này: tên cả ba nhóm đều thuộc vào từ ngữ vay mượn từ tiếng Khmer: cá tra từ chữ trey pra, cá vồ từ chữ trey po và cá xác từ trey chhwaet. Còn ba loài còn lại thì cá hú trong tiếng Khmer thuộc trey pra (cá tra) và cá dứa được gọi là trey chhwaet (cá xác). Chỉ còn lại cá bông lau, tiếng Khmer gọi là trey bong lao.
“Cá đẻ trứng dính vào giá thể thường là rễ của loài cây sống ven sông Gimenila asiatica, sau 24 giờ thì trứng nở thành cá bột và trôi về hạ nguồn. Trong sinh sản nhân tạo, ta có thể nuôi thành thục sớm và cho đẻ sớm hơn trong tự nhiên (từ tháng 3 dương lịch hàng năm), cá tra có thể tái phát dục 1-3 lần trong một năm. Sức sinh sản tuyệt đối của cá tra từ 200 ngàn đến vài triệu trứng. Sức sinh sản tương đối có thể tới 135 ngàn trứng/kg cá cái. Trong chăn nuôi hiện nay là cá bố mẹ hậu bị có nguồn gốc không rõ ràng, không được tuyển chọn và kích thước nhỏ. Đa số cá bố mẹ được tuyển chọn từ ao nuôi cá thịt chiếm tới hơn 57%, còn lại bắt từ tự nhiên và số rất ít từ con giống đã qua chọn lọc. Trong khi đó, kỹ thuật nuôi vỗ thành thục cá bố mẹ chưa đạt, còn tình trạng đẻ ép, khai thác quá mức bằng cách cho cá tra bố mẹ đẻ nhiều lần trong năm, nhất là khi giá cá tra giống nằm ở mức cao[Tuổi thành thục của cá đực là 2 tuổi và cá cái 3 tuổi, trọng lượng cá thành thục lần đầu từ 2,5–3 kg. Trong tự nhiên chỉ gặp cá thành thục trên sông ở địa phận của Campuchia và Thái lan. Cá tra không có cơ quan sinh dục phụ (sinh dục thứ cấp), nên nếu chỉ nhìn hình dáng bên ngoài thì khó phân biệt được cá đực, cái. Mùa vụ thành thục của cá trong tự nhiên bắt đầu từ tháng 5-6 dương lịch. Cá có tập tính di cư đẻ tự nhiên trên những khúc sông có điều kiện sinh thái phù hợp thuộc địa phận Campuchia và Thái lan, không đẻ tự nhiên ở phần sông của Việt Nam. Bãi đẻ của cá nằm từ khu vực ngã tư giao tiếp hai con sông Mêkông và Tonlesap, từ thị xã Kratie (Campuchia) trở lên đến thác Khone, nơi giáp biên giới Campuchia và Lào. Nhưng tập trung nhất từ Kampi đến hết Koh Rongiev thuộc địa giới 2 tỉnh Kratie và Stung Treng”.[Wikipedia]
.
9. Cá lòng tong
.
Cá lòng tong là đặc sản của miền sông nước phía Tây Nam bộ của nước ta. Cá lòng tong có tên tiếng anh là Rasbora, thuộc chi cá Cyprinidae
Cá lòng tong là loài cá nhỏ, cơ thể của chúng khi trưởng thành chỉ có chiều dài trung bình khoảng 10cm. Rất hiếm những chú cá lòng tong dài khoảng 20 cm.
Thân hình của cá lòng tong nhỏ nhưng lại rất chắc. Phần đầu của cá cân đối so với cơ thể. Phần hàm dưới dài, miệng hơi nhếch lên trên. Phần mắt cá khá to, viền có màu ánh bạc và hơi lồi. Thân hình của cá lòng tong hơi dẹt. Phần lưng có vây lưng dài, mỏng và nhỏ. Vây bụng và vây hậu môn của cá mềm và khá mỏng. Phần vây đuôi của cá khá mỏng và chia thùy ở giữa cân đối. Cá lòng tong có màu xanh xám hoặc vàng xám ở phần lưng. Phần bụng cá có màu ánh bạc
Cũng giống như đa phần các loài cá khác, cá lòng tong sinh sản theo hình thức đẻ trứng. Cá lòng tong thường sinh sản vào khoảng trước và giữa mùa mưa ở miền Tây Nam bộ. Khi hết mùa mưa, đây là thời điểm xuất hiện nhiều cá lòng tong nhất và là thời điểm đánh bắt cá nhiều nhất. Cá lòng tong thường được bắt theo cách đánh lưới.
Cá lòng tong thường đẻ trứng dính trên các giá thể mềm (có thể là trên rong hoặc những cành cây). Trứng cá sau khi đẻ sẽ được cá đực thụ tinh, chỉ khoảng 24 – 48 giờ sau trứng sẽ nở thành cá con. Cá lòng tong bố mẹ sẽ tách trứng ngay khi chúng vừa đẻ xong.
Dòng cá lòng tong phổ biến nhất ở Việt Nam: Cá lòng tong mương, Cá lòng tong đá, Cá lòng tong đuôi đỏ . Nhất là Cá lòng tong đá (có tên khoa học tiếng anh là Rasbora paviana) sống chủ yếu ở khu vực sông Mê Kông. Cá lòng tong đá có kích thước khá nhỏ, một chú cá lòng tong đá khi trưởng thành chỉ dài khoảng 6 – 8cm, trọng lượng chỉ khoảng 3gr. Đầu của cá lòng tong đá khá nhọn, thân hình dài và dẹt ở 2 bên. Phần lưng của cá lòng tong đá có màu nâu và phần bụng có màu trắng.
.
Hình cá lòng tong
Về cá lòng tong, tôi xin trích đoạn văn vui sau đây:
.
[… Người miền Tây Nam bộ có câu hát vui rằng: “Chèo ghe bán cá lòng tong, mũi chảy lòng thòng chẳng có ai mua.” Con cá lòng tong nhỏ bé như thế, nên mới có câu ca:“Thiếp như con cá lòng tong/ Ðói đem kho quẹt đỡ lòng trống không.” Cư dân mạng còn lưu truyền câu chuyện khôi hài về cái sự “nhỏ” của cá lòng tong như sau: “Ông Tý (mới đi bộ đội về) gắp một mớ cá lòng tong kho tiêu vào chén. Ông hỏi: – “Cá nầy là cá gì mà ngon quá. Kho tiêu cay, ăn thấm miệng” Bà chị dâu ông cười và trả lời: – “Ðây là cá lòng tong” – “Cá lòng tong là cá gì?” – “Là một loại cá voi, đã được sống trong xã hội chủ nghĩa lâu năm” Nghe nói ở miệt sông Tiền, sông Hậu nước ngọt, khi mùa nước nổi bắt đầu dâng ở đầu nguồn ngập các bờ bãi ven sông là thời điểm bắt đầu của mùa cá lòng tong. Mùa này kéo dài cho đến cuối năm âm lịch. Ðể bắt cá lòng tong, người ta đào một cái ao rộng khoảng mười mét vuông, mở một cửa có rãnh nhỏ, ngắn dẫn ra sông (hoặc kênh, rạch). Nơi rãnh tiếp giáp kinh, rạch được chặn lại bằng một tấm lưới cứng mắt dày hoặc tấm phên tre. Khi nước lớn, người ta rút tấm lưới (phên tre) lên, nước vào đầy ao thì hạ tấm lưới (phên tre) xuống. Khi nước ròng rút ra ngoài thì cá bị giữ lại trong ao, chỉ việc dùng vợt lớn để xúc hay dùng tấm vải mùng lớn, hai người cầm hai bên lội dưới ao kéo qua một cái là cá dính vào đầy tấm vải. Cá lòng tong kho tiêu là món ăn “tới bến” của dân Nam bộ chúng tôi: “Cơm chiều kho cá lòng tong Chấm đọt nhãn lồng bổ óc bổ gan.” Thông thường, cá lòng tong kho tiêu được ăn với canh chua bắp chuối nấu cơm mẻ. Rau muống, rau lang, đọt bầu, đọt bí, đọt nhãn lồng, rau trai luộc hay chuối chát, khế, khóm, bạc hà xắt mỏng. Nhãn lồng là một loại dây leo, còn có tên gọi khác là cây lạc tiên, Ðông y dùng làm thuốc trị ho và an thần… ] [Theo Tạ Phong Tần]
.
10. Cá chốt
Cá chốt trắng / Cá chốt giấy (danh pháp Mystus cavasius/ Mystus wolffii ) là một loài cá thuộc họ Cá lăng – Bagridae. Loài này sinh sống ở sông Cửu Long (Mekong) Với người dân từ Huế trở ra Bắc cá chốt còn được gọi với tên khác là cá ngạnh. Đây là một loại cá đặc sản của Tây nam bộ, nhất là Bạc Liêu:
.
“Bạc Liêu nước chảy lờ đờ Dưới sông cá chốt trên bờ Triều Châu” (ca dao)
.
Nói về hai câu ca dao xưa, người dân đồng bằng sông Cửu Long giải thích bởi cá chốt ở Bạc Liêu ngày xưa nhiều vô số kể, nhiều đến nổi vào những đêm trăng sáng, người ta chỉ cần rải một nắm cám xuống sông lập tức chúng sẽ quơ râu đầy đặc quậy trắng mặt sông.
Cá chốt có ba ngạnh bén, người chẳng may bị cá đâm sẽ rất đau nhức. Làm cá chốt trước hết cần rắc tro bếp vào rổ cá. Vùng vẫy một lúc cá khô nhớt và chết. Bắt cá ra là phải chặt bỏ ngay các ngạnh; sau đó cạo, rửa, mổ bụng và làm sạch.
Cá chốt là loại sinh sống phổ biến ở đồng bằng sông Cửu Long. Cá đợi mùa sa mưa, mang bụng to đầy trứng vàng theo luồng nước từ sông, kinh rạch lên đồng đẻ trứng. Đến tháng 7, tháng 8 âm lịch, nước ngập đồng bưng, cá chốt con nổi đầu, quơ râu hớp bọt như nước cơm sôi. Sau rằm tháng 10 âm lịch, gió chướng thổi mạnh và nước cũng bắt đầu rút. Trên những bờ bãi ven sông, ven ruộng, hay dọc những bờ kinh lau sậy trổ cờ phơ phất, ấy là lúc cá chốt trên đồng rút xuống sông rạch. Vài mươi năm trước cá chốt bị xem như “đồ bỏ” chẳng ai thèm quan tâm vì quá nhiều, không có giá trị kinh tế; và bởi các tỉnh duyên hải miền Tây nam bộ rất phong phú các loài thủy hải sản.
.
(hình Cá chốt)
.
Cá chốt là loại cá nhỏ có nhiều xương, dài không hơn một gang tay, thân hình lớn nhất là ở khúc bụng cũng chỉ bằng ngón tay cái mà thôi; mình cá màu trắng có sọc đen 2 bên, da không trơn lắm, có râu, có ngạnh, ăn tạp. Cá chốt có mặt khắp mọi nơi như ao, đầm, kinh, rạch. Riêng đặc biệt ở Bạc Liêu cá nầy có nhiều ở trên kinh sáng lớn nối liền hai tỉnh Bạc Liêu và Cà Mau, nhiều nhất là vùng phố thị Bạc Liêu: Hai bên kinh là loại nhà sàn nửa trên, nửa dưới; nhà sau cư dân ở đây họ làm nhà xí trên sông. Khi đi cầu, phân rơi xuống thì dòng họ cá chốt nầy tranh giành ăn, nước bắn lên tung tóe y chang như cá tra nuôi cầu.
Về Đồng Bằng Sông Cửu Long thưởng thức món cá chốt kho sả ớt, thêm món canh chua lá me non hoặc bông so đũa nấu với cá chốt trứng, các món ăn ấy tuy dân dã mà ngon.
.
11. Cá lăng
Họ Cá lăng (danh pháp khoa học: Bagridae) là một họ cá da trơn có nguồn gốc từ châu Phi và châu Á (từ Nhật Bản tới Borneo)[3]. Các loài cá trong họ này có các tên gọi chung như cá lăng hay cá bò.
Cá lăng thuộc dòng cá da trơn nên toàn bộ thân hình của chúng không có vảy mà thay vào đó là một lớp nhớt. Cá lăng có vây lưng một gai ở phía trước, vây mỡ ở xung quanh người, phần vây ức có răng cưa. Đặc điểm của cá lăng là mình thuôn dài, đầu hơi bẹt và có 4 cặp râu khá dài.
Cá lăng là giống cá vô cùng đa dạng về chủng loại. Trên thế giới hiện nay có trên 200 dòng cá lăng đang sinh sống. Chính vì vậy, thị trường cá lăng của Việt Nam ta cũng khá đa dạng và phong phú. Nổi tiếng với các dòng cá: cá lăng chấm, cá lăng đuôi đỏ, cá lăng trắng, cá lăng hồng….Cá lăng đuôi đỏ hay còn gọi là cá lăng nha đuôi đỏ hoặc là cá lăng chiên. Dòng cá này sinh sống ở rất nhiều khu vực trên thế giới nhất là khu vực sông serepok. Tại Việt Nam, dòng cá lăng đuôi đỏ chủ yếu sinh sống ở khu vực An Giang, đồng bằng sông Cửu Long, lưu vực sông Mê Kông – (Vương quốc loài vật)
.
@. Vài ý nghĩ riêng:
Tất cả những đặc sản Nam bộ nói trên đều liên quan và tùy thuộc vào dòng sông Cữu Long – Mekong- thân yêu. Chúng sè tồn tại không? Xin mời các bạn đọc những dòng này:
.
[ … Mê Kông Dòng Sông Nghẽn Mạch” bao gồm những hình ảnh và các trang bút ký sống động của tác giả viết về các chuyến đi ấy…
Cũng qua các thông tin có được ấy, để thấy rằng sự suy thoái của con sông Mekong là do những bước “khai thác tự hủy” như môt phản ứng dây chuyền với tàn phá sinh cảnh, làm cạn kiệt nguồn tài nguyên, gây ô nhiểm môi trường… tất cả đã và đang diễn ra nhanh và sớm hơn dự kiện của nhiều người. Điển hình là vùng Đồng Bằng Sông Cửu Long, sông Cửu thì đang cạn dòng, thêm ngập mặn, ngày càng ô nhiễm và nguồn thuỷ sản thiên nhiên từ sông vốn rất phong phú cách đây ba thập niên thì nay hầu như không còn đáng kể…
…
Tiếp theo chuỗi những con đập thủy điện khổng lồ Vân Nam đã và đang gây tác hại trên đời sống của hơn 60 triệu cư dân hạ nguồn, thì sự cố này được coi như một đòn dáng chí tử thứ hai trên sinh mệnh của con sông Mekong, khi dòng sông được khai thác sử dụng như một thủy lộ chiến lược vận chuyển dầu khí từ Trung Đông tiếp tế cho các tỉnh vùng kỹ nghệ Tây Nam Trung Quốc thay vì phải đi qua eo biển Malacca.
Cho đến nay, rõ ràng là không có giải pháp nào để cứu lấy dòng sông khi mà mọi quốc gia trong lưu vực – nhất là Trung Quốc chỉ muốn tự do khai thác con sông theo ý mình chỉ để phục vụ cho quyền lợi ngắn hạn cục bộ – cả theo cái ý nghĩa hủy hoại, mà bất kể tới hậu quả dây chuyền ảnh hưởng tác hại tới các quốc gia láng giềng và về lâu, về dài, tới sinh mệnh của cả một dòng sông ra sao.
Kêu gọi thể hiện “Tinh Thần Sông Mekong” như một mẫu số chung cho mọi quốc gia trong lưu vực mối quan tâm bảo vệ dòng sông trong toàn bộ các kế hoạch khai thác và phát triển – nhưng đó phải là những bước hợp tác phát triển bền vững… ]
[Mê Kông Dòng Sông Nghẽn Mạch – Ngô Thế Vinh] [2]
Hãy cứu lấy và bảo vệ dòng sông Mê Kông !
.
CÁC BÀI THƠ VỀ ĐẠI NGÃI
Xin được giới thiệu đến các bạn vài bài thơ viết về Đại Ngãi quê chúng tôi.
* Phạm Bá Hoa nguyên là Tỉnh tưởng Sóc Trăng/ Ba Xuyên trước 75, cùng quê với Trần Phù Thế và tôi.
.
THỜI TIẾT QUÊ TÔI
Xin được dùng bài thơ sau đây để nói về thời tiết Đại Ngãi nói riêng và Nam bộ nói chung
.
QUÊ HƯƠNG TÔI KHÔNG CÓ MÙA THU
.
Quê hương tôi không có mùa thu
Biết lấy chi mơ thu sương mù?
Dòng Cửu Long lặng lờ soi bóng
Sầu tiễn người rụng trái mù u!
.
Nam bộ tôi không có mùa thu
Chỉ nắng mưa thay đổi hai mùa
Tiễn chân em về bên xứ lạ
Bìm bịp sầu khàn tiếng tiễn đưa
.
Mùa quê tôi không thu mắt em
Không đón đưa ga nhỏ êm đềm
Không rượu vang đèn vàng tiễn biệt
Chỉ hàng bần xanh thẫm đóm đêm!
.
Mùa mưa lâu buồn lên mắt em!
Mưa trên sông mờ mắt kiếm tìm
Theo con nước lục bình hoa tím
Bám vào thuyền ghì chặt… buồn thêm!
*
Quê hương tôi không có mùa thu
Không biệt ly ga nhỏ sương mù
Không “mong em trái sầu chín đỏ ” [*]
“Em tóc vàng sợi nhỏ mắt nâu”
.
Hậu Giang tôi không có mùa thu
Không biệt ly thu đẫm sương mù
Chỉ thảm buồn con thuyền rời bến
Ra đi! Lòng thương nhớ xuân thu!
.
Vắng bóng em tháng chín quê tôi
(Chắc nơi kia mùa thu kinh kỳ?)
Giọt mưa rơi trên sông ngầu đục
Lạnh một dòng sầu nỗi biệt ly!
.
Quê hương tôi không có mùa thu
Chỉ nắng mưa thay đổi hai mùa
Những dòng sông hiền hòa bình dị
Lời thật thà điệu lý hò ru
Xin kèm thêm phần tư liệu của bạn Nguyễn Bich Huyền để bổ sung cho nội dung của bài chính:
[ Một bài viết có tính gợi nhớ lại những ký ức ngày trước của những người dân Miền Tây sông nước. Từ những câu ca dao đến những vần thơ chất chứa cả tấm lòng, tình cảm yêu mến từng địa danh sông nước đến những sản vật sinh vật nơi những vùng quê sông nước Miền Tây.
Nhớ :
— Ven bờ những con còng đỏ nhỏ nơi kinh rạch đến mấy con còng gió xanh lam nhạt vùng nước lợ. Cả đến những đêm rượt đuổi còng biển màu xám đất (~ con dã tràng”) trên bờ biển cạn…
— Mắm cá cháy Bà ba Hiếu nằm ngay đầu ‘doi’quận lỵ Trà Ôn chuyển theo tàu đò Ông tư Thanh Long (tàu chở khách) đến Nhà lồng chợ Cần Thơ giao hàng. Một thời thành danh món “mắm cá cháy”- một sản vật sản phẩm từ vùng đất Trà Ôn – Trà Ôn ngày trước có giai đoạn thời gian thuộc tỉnh Phong Dinh, Cần Thơ. Nay, cá cháy không còn trên sông Hậu và người ủ mắm năm xưa cũng không còn nữa! Chỉ còn “mắm cá cháy” trên văn thơ và chuyện kể lại… cho sau này !
— Ốc len, Thòi lòi, Ba khía,…
-“Thòi lòi nước mặn nước lợ” nay thời “lên hương”; trở thành đặc sản ăn uống vùng miền. Riêng “Thòi lòi nước ngọt” nơi kinh rạch sông ngòi; thuở nhỏ “tắm sông” thường hay tìm cách bắt… thì nay không còn thấy bóng dáng chúng đâu ?! Lớp trẻ sau này chỉ nhận biết qua hình ảnh được minh họa in vẽ lại ! “Thòi lòi nước ngọt” chắc cũng tuyệt giống rồi !!
– Ngày trước Ba khía ủ ướp làm mắm hay để nguyên con đem bán. Ngày nay, dân khoái nhậu rượu bia lại thích Ba khía sống chế biến tại chỗ thành món “nhậu”, món ăn chơi tươi sống “đặc sản”.
Có một giai thoại “ngồ ngộ” nơi đất Cần Thơ: Những năm 2.0xx trên con đường Xô Viết Nghệ Tỉnh (Phan Thanh Giản cũ), nơi bến đò Ô môi, rạch Cái khế, cây cầu Xô Viết Nghệ Tỉnh được xây mới, nối liền 2 bờ rạch Cái khế lại. Cầu nằm khoảng giữa 2 cây cầu Cái Khế và Nhị Kiều. Và con đường mới được hình thành; con đường nối từ một bên đầu cầu Xô Viết Nghệ Tỉnh ra đường Hùng Vương ( Bến Xe Mới cũ) với tên đường mới được đặt tên Đinh Tiên Hoàng. Tên mới với con đường & cầu mới mở dân Cần thơ ít ai nhớ và chú ý để tâm; nhưng, khi nói đến “Đường Ba khía” & “Cầu Ba Khía” thì rất rất nhiều người biết đến. Đường Ba khía & cầu Ba khía tên do những người Cần Thơ tự đặt riết chết thành danh (tên)! Sở dĩ có cái tên này vì từ khi con đường mới mới mở, hàng quán “nhậu” các loại Ốc, Cua,.. đăc biệt “Ba khía” tươi còn sống chế biến. Từ vài điểm bán phát triển nhanh lên “làng Ba khía”, chẳng bao lâu trở thành “phố Ba khía”, chiếm gần hết cả một con đường mới này. Thử hỏi các bạn Cần Thơ: Bạn có biết đường Đinh Tiên Hoàng ? đường Ba Khía ?. Xin các bạn đừng cho rằng: Hai cái tên đường trên là 2 con đường khác nhau. Và cây cầu mới này có tên đúng là: Cầu Xô Viết Nghệ Tỉnh chớ không phải là: Cầu Ba Khía.
… Còn nhớ vài chuyện nữa, những chuyện mãi mãi không bao giờ quên.
P/s: À, những con còng đỏ nhỏ nơi sông rạch ngày trước; nay cũng mất tăm mất tích… không biết từ lúc nào nữa! ] (Nguyễn Bich Huyền)
Bạn phải đăng nhập để bình luận.