.
Chương 13
CHIẾC VÒNG CẨM THẠCH
Tôi cầm cái bao ny lông, nhón gót đi lần xuống nước. Chỗ nầy không còn cát mịn như ở đàng kia mà đầy những mảnh vụn san hô trắng lột xột, nằm xen lẫn với những tảng đá lớn, rong rêu đen ngòm. Nước trong xanh lắp xắp ngang bắp vế mát lạnh. Trời xế trưa nắng nóng trên lưng. Trước mặt, một đám đông đàn bà, con nít đang nghiêng mình mò mẫm dưới cát. Tiếng nói chuyện lồng lộng xen trong sóng gió rào rào. Tôi cũng bắt chước làm y theo họ, nhìn lom lom đám sỏi cát nhấp nhô gờn gợn theo làn nước chập chờn. Cách đó vài thước, một bà Tàu già cầm trên tay một cái túi ny lông, chứa những con đĩa biển nằm lềnh ra như môt đám bùn đen sền sệt bầy nhầy. Không biết do ai bày ra, cả trại xúm nhau nhào xuống biển bắt con đồn đột, một loại đĩa biển mềm nhũng, lớn cở trái chuối già, chín rục đen thui. Dưới đáy nước rải rác đó đây, những con đồn đột đen nằm phơi mình trên cát trắng nên dễ thấy. Tôi thò tay xuống mò bắt một con. Bàn tay vừa chạm trên mình nó, cảm thấy nhớt nhớt, trơn tuột mềm xèo nghe ghê ghê, thuận tay tôi quăng tòm trở lại, thất vọng đứng thẳng lưng, nhìn vào bờ. Trên bờ Sơn đang lỏm bỏm đạp nước đi ra, miệng hỏi vang rân:
– Giữa trưa nắng mà lội ra biển bắt con đồn đột, bộ anh dám ăn hả?
– Thấy người ta làm thì mình bắt chước. Còn ăn được hay không thì thủng thỉnh tính sau.
Sơn cười hề hề:
– Tính trước tính sau gì. Chiều hôm qua anh Tư Trần Hưng Đạo bắt được cả rổ. Không biết cách làm, đem phơi nắng cho khô, nhè đâu nó rút lại teo nhách, không còn gì hết, phải đem đi bỏ…
Tôi nản chí quăng luôn cái bao xuống dưới nước, rủ Sơn lên bờ. Trưa nay, ít gió nên sóng chỉ lăn tăn. Hai đứa kéo nhau ngồi dưới đám dừa im mát. Chỗ nầy cỏ mọc loang lổ vì thiếu nắng. Sơn bận cái quần xà lỏn đen ở trần. Nó vốn đã ốm, cơm gạo đảo Dừa lại hiếm hoi nên xương sườn xương sống đã bắt đầu lộ nét. Tôi cũng không khá gì hơn, ốm nhôm ốm nhách, râu tóc lại không được cắt xén, mặt mày tay chưn đen thui… chắc cũng gần giống Mã Lai. Thực phầm trên ghe lúc mới tấp vô đảo, còn được tám bao gạo chỉ xanh, cả tuần nay chia nhau ăn, tuy tiện tặn từng chút nhưng cuối cùng rồi cũng hết, không còn một hột để cầm hơi, đành phải lấy phần cốm dẹp cuối cùng đem nấu cháo cho Bi. Rồi tới gói sữa bột còn lại, gói sữa nầy khi đi soạn để đem theo, ai thấy cũng cười. Nhè đâu nhờ có nó mà Bi cầm cự được vài buổi. Thiếu hụt thực phẩm, sinh hoạt trên đảo dần dần ngưng đọng, im lìm. Người lớn đâm ra bớt nói năng, con nít thôi không chạy giỡn. Những ánh lửa vàng vọt không còn hắt hiu bên vách thì làm sao người ta còn thấy được những làn khói xám mờ nhạt uốn éo vươn cao vào lúc bình minh hay buổi chiểu tà. Tình cảnh tuy chưa đến nỗi thảm thương nhưng coi bộ hết đường cạy gỡ. Không biết tụi lính Mã Lai trên đảo xử trí ra sao mà không thấy chúng đến tiếp tế, giúp đỡ hỏi han gì. Cái điệu nầy mà kéo dài thì chắc đói hả họng cả đám. Tôi nắm lấy tay Sơn:
– Sơn nè, anh chị cám ơn em nhiều lắm. Làm sao mà Sơn còn được lon gạo để cho anh tối qua.
– Có gì đâu mà anh nghĩ ngợi hoài cho mệt vậy. Em còn dấu được hai lon. Tụi mình lớn, dầu có đói thì cũng rán chịu đựng được năm ba ngày. Chớ Tâm Bi còn quá nhỏ, thiếu ăn đâu có được, hổng có cơm thì phải có cháo chớ!
Nghe Sơn nói, tôi cảm động quá sức, không biết nói sao cho hết nỗi cám ơn, đành ngồi trơ ra như đất, mắt mơ hồ nhìn từng đợt sóng nối tiếp tan thành bọt trắng trên mé cát mà lòng rưng rưng. Trong những bạn đồng hành, mức độ thân tình của hai đứa cũng bình thường như bao người khác. Nào ngờ trong lúc túng hụt, Sơn lại là người giúp đỡ đầu tiên. Ở đời, có nhiều người bề ngoài bình thản, tình cảm ít biểu lộ nhưng bên trong chứa đựng một tấm lòng tốt đẹp bao la. Phải cùng chung hoạn nạn gian nguy, mới biết rõ lòng nhau. Sơn quay qua tôi chỉ về phía trước:
– Anh coi kìa, tụi con nít đi đâu mà kéo nhau cả lũ…
Ở phía đằng kia, một đám lóc nhóc, tốp năm tốp ba có cả người lớn, len lỏi đi thấp thoáng sâu vô trong đám cỏ tranh. Thấy có cái lưng mập ú của thằng Lĩnh, cái dáng ốm tong ốm teo của thằng Trung, con Dung, con Xuân Lan thì được má nó ẳm tòn ten bên nách. Có cả bốn đứa con gái nhỏ của Tư Trần Hưng Đạo vừa chạy vừa kêu nhau ơi ới. Giờ nầy nắng chang chang. Cũng vừa lúc đó, Út Trung đi ngang gặp tôi với Sơn nghỉ mát dưới bóng cây, bèn rủ:
– Đi vô rừng coi khỉ hái dừa…
À, thì ra như vậy. Tôi khoái chí đứng bật dậy, kéo Sơn theo. Chuyện hết cơm hết gạo để đó thủng thẳng rồi tính. Bây giờ đi coi khỉ hái dừa cái đã. Cả ba đứa lần theo đường mòn dẫn vô đám dừa dầy đặc. Một đám đông chùm nhum ở đó tự bao giờ. Mọi người cười nói chỉ chỏ trên cao. Tôi nhìn lên thấy một con khỉ nhỏ xíu như đứa con nít lên hai, cổ cột sợi dây dài, đang leo thoăn thoắt lên cây dừa. Cây dừa dài ngoằn cao vút ngó tới rớt ót, vậy mà trong giây phút, nó đã leo lên tới đọt. Hai tay hai chưn dài thườn thuợt lông xám ngoét, lều khều bám vô thân dừa xù xì, dính chặt như thoa kéo. Dưới đất, một người Mã Lai già da màu đất nâu, quấn một cái khăn có sọc màu xanh đỏ chùm bum trên đầu, đương đứng đốt thuốc hút. Con khỉ dùng tay và chưn vặn xoay tròn trái dừa. Cái cuốn dai nhách. Thằng nhỏ Trung, nhìn con khỉ vặn vẹo cái mình ốm nhách, khoái chí nhảy tưng tưng, nhe hàm răng sún ra cười hăng hắc, cái quần cụt xệ xuống khỏi rún, thiếu điều muốn tuột luôn. Một đám con nít chỉ chỏ, cười nói vang rân. Thằng khỉ đột Zăm Bri từ con đường mòn lù lù hiện ra, đi lặc lè tới, nhìn con khỉ đang vặn trái dừa, thấy thằng Trung quần xệ, ở trần nhảy choi choi cũng cười, bật nói:
– You, the monkey!
Thằng nhỏ không biết tiếng Anh, sợ bị phạt, đứng im.
Thấp thoáng qua kẽ lá đan nhau, một bóng người đi tới dịu dàng. Người đẹp dảo Dừa trưa nay bận chiếc áo mài xanh non lá mạ có thêu bông trắng. Út Trung nghiêng qua vai, nói thì thầm:
– Bà Chiều Tím cũng lặn lội ra đây coi khỉ hái dừa y như tụi mình..
Nghe Trung nói tôi đâm sực nhớ mình đang ờ trần, râu tóc mọc vô trật tự, da dẻ đen đúa. Dưới chưn mang một đôi dép đứt, cột vá víu bằng sợi dây nhợ đỏ lượm được. Tự dưng, tôi đâm ra ngượng ngùng, đưa mắt lên cao nhìn cái quài dừa còn trơ lại mấy trái non. Con khỉ sau khi đã được thưởng công bằng trái chuối, chuyền qua cây kế bên, kéo theo đám con nít mũi dãi thò lõ, cùng thằng Trung nhỏ bận quần xệ rún, thằng Zăm Bri chống gậy lặc lè, đi đâu mất tiêu từ hồi nào tôi không hay biết. Cái số gì mà xui xẻo. Mỗi khi ăn diện đẹp đẽ, tóc tai chải gỡ ngay hàng thẳng lối, thì không gặp được ai để khoe. Còn khi quần áo lôi thôi lếch thếch, mặt mày nhăn nhó xấu xí, thì trăm lần như một, hết gặp người nầy tới đụng người kia. Thiệt là hết đường làm ăn. Ông già Mã Lai lui cui lượm những trái dừa vừa được hái quăng vương vãi đó đây, gom lại thành đống. Xong rồi ông ta dùng con dao nhọn xé tách vỏ dừa xanh bóng một miếng xơ nhỏ, rồi dùng xơ cột hai trái dính chắc làm một, lấy chiếc đòn tre dài xỏ ngang qua như xỏ xâu chùm bánh tét, rồi è ạch kê đòn lên vai, gánh dừa chuyển dần xuống ghe. Mấy chục trái dừa nặng trì xuống, khiến cái vai của ông oằn nghiêng một bên theo nhịp bước chưn đi. Nải chuối sứ chín vàng lườm để dành cho khỉ ăn còn le que vài trái cũng được treo lủng lẳng ở đầu đòn. Ở đằng kia, cũng có vài người Mã nữa, họ đang trông coi cho khỉ hái tiếp những cây dừa còn lại.
Nàng đã tới gần. Tôi đâm luống cuống không biết nói năng ra sao đành mỉm cười gật đầu chào và đứng im. Các tàu lá đong đưa đầy nắng vàng rực rỡ. Con đường mòn cát trắng khô, chạy khuất trong đám lá xanh xanh. Xung quanh là những cây dừa cao vút. Tất cả đều chập choạng mơ hồ. Út Trung bước tới trước, đon đả làm quen:
– Chào chị. Chị ở đây lâu, có thấy khỉ hái dừa lần nào chưa, tụi tôi mới thấy lần đầu. Ngộ quá, con khỉ nhỏ xíu mà vặn nổi trái dừa…
Nàng chào lại, mắt sáng trưng:
– Dạ thưa, tháng trước cũng có thấy hái một lần. Lúc đó, số dừa tươi bị chúng tôi hái trộm nhiều quá, nó mét với Tăn Ku, thành ra bây giờ tụi lính Mã Lai kiểm soát chặt chẽ hơn. Rồi cấm đoán, khó khăn lắm..
Rồi nàng tiếp :
– Phải chi hái trái để ăn thì cũng không sao, mấy ảnh lại nhè đốn luôn cả cây. Tụi nó bắt gặp được tất cả bảy cây bị đốn. Thành ra mấy tuần nay bị cấm bẻ dừa, cấm câu cá, cấm đi vòng qua bên kia đảo tiếp xúc với ngư dân…
Tôi xen vô tiếp chuyện, mắt nhìn thấy một nốt ruồi nhỏ bên mép phải, trong bụng nghĩ thầm, cái miệng nầy chắc cũng ăn hàng dữ lắm:
– Hèn chi, từ ngày ghe tụi tôi tấp vô đảo, tụi lính Mã Lai coi bộ gầm gừ quá. Nó ra đủ thứ luật lệ… loay hoay ở mé biển hoài, không được đi đâu hết. Lều của mấy anh chị ở sát bên, vậy mà cũng không được liên lạc… thành ra không biết tin tức gì hết trơn. Hôm trước thấy chị nói chuyện với Tăn Ku, cứ tưởng chị là người Mã Lai.
Nàng cười rạng rỡ, má lúm đồng tiền tròn vo:
– Em học nói bập bẹ được vài câu thông thường. Anh Quang em thì nói được giỏi hơn. Tụi em đến đây cũng gần hai tháng rồi.
A, thì ra ông Chiều Tím, tên Quang. Nàng, người đã đẹp, lại ăn nói ngọt ngào. Ba tiếng ‘anh Quang em’ thoáng nghe dễ thương, mà cũng dễ giận hết sức. Ở đời, sao có những người tốt phước, chắc lúc trước anh ta tu đúng chín kiếp, chưa từng phạm giới lần nào. Bỗng dưng tôi muốn biết mặt mày, tướng tá của anh chàng nầy. Cũng không biết để làm chi !
Từ bên trong rừng dừa, chị Điệp tay dắt thằng Trung, con Dung, chị Kiều bồng con Xuân Lan và mấy đứa nhóc tì coi khỉ đã trở ra. Cả đám dừng lại khi thấy người đẹp đảo Dừa đang nói chuyện với hai đứa tôi. Trước lạ sau quen, mấy bà gặp nhau thì ôi thôi, có biết bao nhiêu điều để nói. Câu chuyện xoay dần quanh việc mua bán đổi chác. Tôi chú ý lắng nghe vì biết rồi mình cũng sẽ cần. Nàng mở đầu:
– Em có quen với Tăn Ku, mỗi ngày đều có ghe liên lạc với đất liền. Nó có thể mua dùm cho mình thực phẩm và các thức cần dùng. Cũng tiện lắm. Mấy ngày nay, em biết là anh chị đã hết gạo muối nhưng tụi lính Mã Lai chưa cho em đi ra ngoài nầy. Mãi đến hôm nay nó mới cho phép…
Chị Điệp ríu rít hỏi thăm các chi tiết:
– Nếu mua được đồ ăn thì đỡ quá. Cái gì cũng thiếu thốn, chịu đựng hết muốn nổi. Mua được gạo là tốt nhứt. Nhưng làm sao có tiền Mã Lai để gởi mua…
Nàng giải nghĩa:
– Làm sao có tiền Mã cho được. Tụi nó chỉ xài đô la với vàng. Tiện nhứt là vàng. Nó sẽ qua Kuala Trengganu đổi ra tiền Mã, một chỉ tính ra được hai mươi lăm đồng, rồi mua đồ ăn. Mình tạm sống cho qua ngày để chờ được đưa qua đảo Bidong. Còn nếu có đô la, thì tính một đô ăn hai Mã…
Chị Kiều lẩm bẩm tính:
– Nếu vậy thì một lượng vàng chạy ra có một trăm hai mươi lăm đô. Sao ít quá vậy?
Tôi cũng loáng thoáng thấy giá đó quá thấp so với giá vàng hiện tại nhưng sợ người đẹp mích lòng đổi ý, bèn xen vô:
– Thôi kệ nó, mắc rẽ gì. Mình không mua chịu nhịn đói sao! Thôi, nếu được vậy nhờ cô mua dùm…
Nàng trả lời, giọng ngây thơ:
– Em cũng đâu có biết. Lúc đi còn dấu được một ít. Cứ đưa cho nó, nhờ mua dùm, được bao nhiêu hay bấy nhiêu. Nhưng theo em thấy nó cũng không gạt gẫm gì mình. Lính tráng mà, đâu biết mua bán gì. Thông thường thì có gạo, đường, sữa, đồ hộp… Các anh chị muốn mua gì, thì ghi vô giấy đưa cho em…
Chuyện thảo luận mua bán kể như đã xong. Người đẹp trở thành người môi giới liên lạc giữa TănKu và dân tỵ nạn. Ai còn dấu được chút ít vàng bạc, thì cứ đưa cho nàng để đổi lại một mớ thực phẩm để cầm hơi. Tôi chạy u về lều, bàn với Duyên mua các thức cần dùng, lấy một nhẫn vàng đưa cho nàng và chờ đợi.
Mặt trời đã nghiêng xuống bên kia sát mặt biển loáng vàng, nắng đã dịu hơn. Gió lào rào trên đọt dừa. Ba người Mã Lai còn trẻ lục tục khiêng những xâu dừa nặng trĩu trở ra ghe. Trên đầu mỗi đòn gánh, vắt vẻo con khỉ con, miệng ngậm ngồm ngoàm trái chuối, mắt láo liêng. Coi thiệt giống… khỉ hết sức!
Ngày hôm sau hàng đem về lúc chín giờ tối. Tôi cầm lấy gói đồ ăn, mừng húm. Dưới ánh đèn dầu cặn tù mù hôi rình, tôi đếm được tất cả gồm có mười gói mì tôm hiệu Maggi, ba kí gạo, một kí đường và một cục xà bông loại giặt đồ nhỏ xíu. Gói đồ ít quá, đếm đi đếm lại, cũng chỉ có bấy nhiêu. Tuy nhiên, tôi cũng mừng lắm. Dầu sao, có cũng còn hơn không. Tôi lấy hai gói mì đem qua cho Sơn, để đền ơn lon gạo hôm trước. Sơn thấy tôi đã đổi được hàng, bèn hỏi thăm cách thức. Sơn cũng còn dấu được chiếc nhẫn vàng hai chỉ như vậy là yên chí lớn, em sẽ còn cầm cự dài dài…
Tôi ra gốc dừa, bắt cái gàu mên lên bếp để nấu mì ăn liền. Ánh lửa bùng lên soi sáng một góc lều. Rải rác đâu đây các bếp cũng lục tục sáng lên ánh lửa trong đêm. Bên lều anh Tư Trần Hưng Đạo, lều anh chị Thuần, cũng có tiếng nói chuyện rì rầm. Nước đã sôi ùng ục, tôi xé bao bỏ mì vô khuấy nhè nhẹ. Những cọng mì cứng còng gặp nước sôi mềm ra từ từ. Nước miếng tôi ứa ra. Mì đã chín, hai vợ chồng ngồi bên bếp lửa le lói, ăn chén mì nấm ngon nhứt trên đời. Tôi nhai thiệt kỹ từng cọng mì nhỏ ngọt ngào. Mũi nghe được hương vị thơm ngát. Thiệt tình, mì Mã Lai sao ngon quá là ngon. Tơi tin rằng trên cả thế giới nầy, không có thứ mì nào ngon hơn gói mì Maggi của tôi, buổi tối đó. Tôi ăn thiệt chậm, thiệt lâu vì chén mì ít quá, phải ăn kiểu hà tiện, ăn lẹ sợ mau hết. Nhưng rồi cũng hết. Đáy chén sạch trơn không còn một cọng nhỏ, không còn một giọt nước. Bụng vẫn còn thèm thuồng, nhưng đành rán nhịn, biết đâu những ngày ở đảo lạ kéo dài, còn chút vàng nào nữa để đổi đâu!
Nhờ có vụ đổi vàng mà cả trại không chết đói. Đã mười mấy ngày rồi, dầu có đem theo thực phẩm thiệt nhiều cũng không làm sao mà còn được. Lần lần ai có vàng, đô la, đồng hồ, cũng phải đem ra để đổi lấy thức ăn. Người đẹp đảo Dừa làm ăn độc quyền chỉ được vài ngày rồi sau đó bị giành dân lấn đất. Bọn lính Mã đánh hơi, thấy được mối lợi, bèn chen vô, thằng nào cũng kiếm người để đổi. Tha hồ mua bán. Dân tỵ nạn có thể đổi gạo, mì ăn liền, cá thịt hộp, kẹo bánh, nồi nấu cơm. Ban đầu đổi bằng vàng, bằng đô la rồi tới đồng hồ. Tụi này cũng khôn ngoan dàng trời. Khi đưa vàng đổi, nó mài thử, cắn thử để coi thiệt giả, còn đồng hồ thì phải các hiệu Thụy Sĩ hoặc Seiko nổi tiếng, các loại đồng hồ cũ hoặc không tự động, không thèm. Thằng Johny to con, đen như cột nhà cháy, cựu võ sĩ quyền Anh, chắc thuộc hạng lông hay hạng gà gì đó, răng cửa bị đánh gảy hết trơn hết trọi, chuyên môn chạy hàng. Nó đi từng lều, gợi chuyện đổi chác, hạ giá để cạnh tranh. Bà Chiều Tím, để giữ mối hàng, cũng phải chạy đua bằng cách đổi cho hàng hóa nhiều hơn. Ông già Adidas cũng bắt đầu mở rộng công cuộc làm ăn nhưng chỉ hoạt động lén lút vào ban đêm vì sợ bọn lính bắt gặp. Mỗi đêm từ chín, mười giờ tối, ông ta mới lẻn vào lều của chị Kiều, chị Huệ giao hàng, các thân chủ chạy lại, rì rầm bàn tán tới khuya. Khách hàng tấp nập, đa số là người Tàu vì họ có tiền. Ngày nào cũng có những vụ đổi chác; lần lần người ta đổi tới thuốc men, nồi niêu và các thứ hàng xa xỉ như vài trái bôm chua cho bà bầu, kẹo bánh, sô cô la cho con nít…
Do ba cái vụ đổi chác nầy mà tôi gặp lại anh bạn Tô Tỷ vào một buổi chiều. Trời đã xế bóng, từ khu lều ở tận cuối bãi anh ta lò dò lên tận trên nầy để đổi hàng. Mới có gần mười ngày không gặp mà anh bạn nầy thay đổi ngó thấy. Người ốm chau vau, mặt mày bí xị. Anh ta cầm gói hàng vừa đổi được định trở về khu cây bàng thì gặp tôi vẩn vơ ngoài bờ cát. Chưa kịp chào hỏi thì anh ta phân trần:
– Ông thầy coi nè, một chỉ vàng mà đổi được có mấy trái bôm chua…
Nói xong anh ta đưa cái gói trước mặt tôi rồi mở rộng miệng túi ra. Tôi liếc nhanh, thấy được có bốn trái bôm màu xanh dợt. Nhìn lại kỹ càng, thiệt tình cũng chỉ có bấy nhiêu. Tôi nắm miệng túi lại, trả cho anh rồi cười mà hỏi:
– Người ta đổi vàng để lấy gạo ăn, còn anh thì đổi lấy bôm để ăn chơi. Thôi than mắc than rẻ gì. Có dư tiền nhiều thì cũng nên xài sang một chút, cho nó sướng cuộc đời!
Anh ta cười gượng, chửi thề:
– Dư dả cái mẹ gì, có vài chỉ cũng phải để dành mua gạo ăn chớ. Mua làm chi ba cái thứ quỷ nầy!
Tôi cười ngất:
– À, nói nghe cũng được. Vậy tại sao mua cho đã rồi lại cằn nhằn?
Cái mặt anh quạu đeo:
– Mẹ nó, tại con vợ ngộ, nó đòi ăn ổi, ăn cóc, mấy cái thứ trái cây chua. Nó có chửa mấy tháng rồi. Ngộ không chịu, cải lộn với nó. Nó khóc lóc, gây lộn hoài hà, ngộ bực mình chịu không nổi, ngộ đi đổi với thằng già Adidas. Một chỉ vàng mà nó đổi có bốn trái bôm.. cũng phải lấy chớ làm sao bây giờ. Vàng mình đưa cho nó trước rồi!
Tôi làm tài khôn:
– Tại sao nị không kêu nó lấy mận hay ổi cho được nhiều nhiều, chớ bôm xứ nầy đâu có trồng được, phải nhập cảng bên Tây, mắc lắm!
– Ngộ không biết rành tiếng Ăng Lê, ra dấu đủ thứ. Nó gật đầu lia lịa, tuởng đâu nó hiểu. Nhè đâu mua ba cái thứ mắc dịch nầy.
– Thôi kệ nó, lỡ rồi nhớ lần sau đừng thèm đổi với thằng cha già đó nữa, nó điếm lắm. Nội cái mặt nó, thấy cũng đáng ghét rồi. Nị tìm cái cô đẹp đẹp dễ thương mà đổi. Cổ tử tế lắm. Nị muốn mua cái gì cứ viết chữ Việt vô giấy đưa cho cổ là mua đúng liền hà, mà lại rẻ nữa, khỏi phải bực mình. Cái cô đem nước cho cả ghe mình uống, hôm mới tấp vô đảo đó.
Tô Tỷ vừa nghe tôi giới thiệu người đẹp đảo Dừa, anh ta trố mắt nhìn tôi, mặt nhăn lại tối sầm, giọng gay gắt:
– Ai nói với ông thầy giáo cô đó tử tế? Nó cặp bồ với thằng trung sĩ Mã Lai mà, tốt cái gì?
Trời, anh bạn Tàu nầy chắc bị vợ chửi hoài, trời lại nóng quá, nên nổi khùng nói bậy nói bạ, người đẹp đảo Dừa của tôi đâu có xấu xa như vậy. Cô ta quen với Tăn Ku, chỉ nhờ mua hàng dùm thôi mà, có thể kiếm lời chút đỉnh, việc đó cũng đâu có quan trọng gì, tại sao lại nghi oan cho người ta. Tôi đâm đổ cộc, chận ngang anh ta lại:
– Ê, Tô Tỷ không được ăn nói bậy bạ nghe, người ta là người tử tế, có chồng có con đàng hoàng, cô đó mà nghe được, thì nị không còn cái răng để ăn cơm đó!
Nghe tôi nói, anh ta không tốp bớt, mà còn nói thêm:
– Ông thầy giáo ơi, cà đảo nầy ai cũng biết hết, có ông thầy giáo là không biết thôi. Hay là tại cổ đẹp quá rồi, ông thầy giáo không thấy gì hết!
Tôi nghiêm giọng:
– Cái gì đẹp với không đẹp, bằng chứng đâu mà anh nói người ta bậy bạ. Điều gì chưa biết chắc chắn thì đừng nói. Nếu lỡ tới tai chồng con cô ta thì nị ăn nói làm sao?
Anh ta bật cười ha hả, ở dưới hàm cộng lông mọc trên mục ruồi đen rung rinh:
– Ông thầy muốn có bằng chứng hả. Cái bằng chứng chình ình trước mặt đó. Cái vòng cẩm thạch của má thằng A Phát, tại sao bây giờ cổ có mà đeo?
Tô Tỷ vừa nói dứt câu, tôi chợt tỉnh hẳn sững sờ, đứng trơ ra. Quả nhiên anh ta nói đúng. Mới hồi sáng nầy, tôi có gặp nàng đi ngang bãi cát trước lều. Nàng mặc chiếc áo lụa ngắn, màu hột gà để lộ cánh tay trắng hồng, trên đó nổi bật một chiếc vòng cẩm thạch màu xanh biêng biếc. Chiếc vòng xinh xắn, vừa vặn ôm lấy cườm tay no tròn, đong đưa theo nhịp bước đi. Chiếc vòng đẹp hòa hợp với cánh tay xinh, một sự phối hợp tuyệt vời của nhan sắc. Cái vòng ngọc làm đẹp cho cánh tay, hay cánh tay làm đẹp cho cái vòng? Nghĩ cũng tội nghiệp cho cái vòng tuyệt mỹ nếu cứ để cho một bà Tàu già, da dẻ nhăn nhúm như trái táo khô, đeo năm nầy qua tháng kia. Thiệt tình, tôi không biết là nàng có được chiếc vòng từ bao giờ. Tôi chống chế:
– Chắc má A Phát hết vàng rồi, lấy cái vòng đó để đổi đồ ăn hay mua vật dụng, quần áo gì đó?
– Má A Phát mà hết vàng hả? Ông thầy có nằm chiêm bao không, thằng A Phát giàu nổi tiếng ở Chợ Lớn, nó đi Hồng Kông, Xanh Ga Po như đi chợ, nhà nó mà nghèo hả, ghe mình lại không bị cướp, làm sao mà hết tiền cho được…
Tôi đứng xuội lơ, còn gì để nói nữa. Nó tiếp những lời cay đắng:
– Ngộ nói cho mà biết nè, mấy bữa hôm trước, thằngTăn Ku đi một mình lại lều má A Phát buổi trưa. Ngó tới ngó lui không có ai chỉ có bà già một mình, tụi con đi tắm hết, nó chỉ chiếc vòng má A Phát đương đeo hỏi có bán không, nó ra dấu mua một trăm đồng Mã Lai. Ông thầy cũng biết tụi Mã Lai, khi ghe tắp vô bãi, lục soát kiếm vàng, đô la với hột xoàn, chớ vòng cẩm thạch không thèm lấy. Người ở xứ nầy không quí cẩm thạch như bên Tàu với bên mình. Má A Phát lắc đầu không chịu. Chịu làm sao được. Cái vòng cẩm thạch chột to, màu bông lý, giá ở Sài Gòn lúc trước phải mấy trăm ngàn đồng… Nó thấy bà già không chịu, bóp mạnh tay bà, thiếu điều muốn trẹo, vuột lấy chiếc vòng rồi bỏ đi. Bà già sợ quá, không dám kêu la một tiếng. Buổi chiều, cái con quỷ cái đẹp đẹp mà ông thầy nói đó, đeo cài vòng lủng lẳng ở tay, đem lại lều má A Phát năm gói mì con tôm, nói là của Tăn Ku đưa… để trả tiền chiếc vòng. Năm gói mì giá một chiếc vòng cẩm thạch, ông thầy thấy được không?
Vừa nói, anh ta vừa ngó tôi nghinh nghinh:
– Sao ông thầy nghĩ sao, ngộ nói có cái gì bậy không nè. Bộ thằng Tăn Ku ở không, rồi bày đặt chuyện đi giựt của người nầy để cho người kia à. Mà lại giựt đồ của người ta đương đeo giữa ban ngày. Con kia phải cho nó cái gì chớ, nó mới kiếm cái vòng để cho lại. Như vậy là huề, hai bên đều có lợi. Chỉ có má A Phát với chồng của cổ là lỗ thôi. Nhưng nghĩ cho kỹ, chồng của cổ lỗ nặng hơn…ha..ha!
Tiếng cười của Tô Tỷ ngân vang bên tai. Tôi không muốn nghe nữa, lỗ tai đầy cứng, đầu óc lùng bùng, tôi đứng trơ ra như khúc cây, không biết hiện mình đang ở đâu. Trước mắt hình ảnh chiếc vòng cẩm thạch xanh biêng biếc chập chờn, rồi hình ảnh nàng dịu dàng trên con đường mòn, tay xách từng thùng nước để cho cả ghe đỡ cơn khát. Hai hình ảnh đó loanh quanh, lẩn quẩn trong đầu. Nàng đáng thương hay đáng ghét? Nàng đáng ghét hay đáng thương? Tôi đâu phải là ông toà mà phê phán việc đúng sai, phải quấy. Chỉ đáng thương cho nàng trong một phút ham muốn yếu lòng… Buổi chiều có gió lớn, sóng ngoài khơi chạy thẳng vào bờ đá ồ ạt, quay cuồng giận dữ, đập ầm ầm, tung bọt trắng xoá. Lòng tôi cũng như sóng, vỡ tan từng mảng, từng mảng…
Gió đưa bụi chuối sau hè
Bụi môn trước cửa, ai dè em hư!
Chương 14
NHỮNG CHIẾC GHE LẠ
Từ khu dựng lều của người Việt nhìn về cuối đảo là một vách đá xám đen sừng sững
chắn bít chơn trời, nhô hẳn ra biển xanh. Những khối đá đồ sộ to cao hàng mười, mười lăm thước nằm ngang nằm dọc gồng mình ra đón những đợt sóng hung bạo từ ngoài khơi xa xăm đập thẳng vào nghe ầm ầm, ầm ầm suốt ngày đêm. Những con hàu già cỗi rong rêu xanh xám bám dầy dưới chưn đá từng lớp lớp. Đá xanh đen thi gan cùng biển cả nằm lỳ ra đó cả triệu triệu năm. Bên kia vách đá là làng đánh cá của ngư phủ Mã Lai. Mỗi sáng từng đoàn ghe thức dậy một lượt với mặt trời, nổ máy dòn dã xình xịch ra khơi.
Ghe đánh cá Mã tương đối nhỏ nhưng hai bên hông to bè ra, khác với ghe Việt thon mà dài. Mới ngó là phân biệt được liền. Ghe mình giống một cô gái ốm cao và chưa chồng. Ghe Mã là một bà bầu lùn thấp được trang điểm sặc sỡ từ đầu đến chưn. Chiếc nào cũng còn mới được sơn phết đủ thứ màu, hầu như không thấy dấu vết đen đúa cũ kỹ hư mục. Những tảng màu xanh đỏ vàng trắng được sơn xen kẽ nhau lằn nhỏ lằn to vòng quanh thân ghe, tạo được cái vẻ xinh tươi đẹp đẽ. Những ngư dân đánh cá ở mặt trước đảo, họ dùng lưới nhỏ và ít người bạn phụ việc vì có lẽ nơi đây còn quá gần bờ. Những ghe lớn có dàn lưới to hơn chắc ở tận ngoài khơi. Ngoài mấy ghe đánh cá còn có những chiếc chuyên chở hàng óa, những loại trái cây thổ sản giống y bên mình. Những ghe chở dừa, chuối, thơm, mía… được chất khẩm đầy khoang, ghe lướt êm đè sóng mà đi từng đoàn bốn năm chiếc.
Buổi chiều mặt trời mỏi mệt vừa nghiêng xuống gần mặt nước thì những đoàn ghe đánh cá xình xịch trở về đi ngủ. Trên ghe thấp thoáng người dân Mã quấn khăn trên đầu mặc xà rông thong dong ngắm trời mây. Đời sống họ trông có vẻ an nhàn sung túc. Nhìn vẻ thoải mái của họ mà tôi sướng lây. Cả ngày không việc gì làm tôi bồng con nhỏ sáng sáng chiều chiều đón ghe đánh cá đi, về để cho qua thì giờ khắc khoải chờ đợi. Mãi cho đến một buổi chiều khoảng bốn, năm giờ, ánh nắng còn chói gay gắt trên mặt biển, từ thiệt xa có một chiếc thuyền Mã chạy thẳng ngay vô đảo. Tôi mắt kém nên không để ý làm chi. Mỗi ngày có hàng hai ba chục chiếc đi ngang qua đảo là thường. Ngoài ra có chiếc của tụi lính liên lạc với đất liền hàng ngày, đó là không kể những chiếc tàu sắt đồ sộ thường ghé đậu cặp cầu tàu. Chiếc thuyền nhỏ như cái tô lần lần lớn như con bò mộng… rồi bằng cái xe hơi. Tôi cũng thấy gì khác hết. Anh Tư Trần Hưng Đạo nhìn thấy là lạ rồi đi sấn ra bờ cát. Bỗng dưng anh la lớn:
– – Thuyền tiếp tế, bà con ơi!
Tiếng la chói lói, tôi giựt mình rán nhìn kỹ thấy ghe sơn trắng toàn thân, có cắm cờ lưỡi liềm đỏ. Tôi không biết cây cờ nầy có ý nghĩa gì. Tại sao lại hình trăng lưỡi liềm đỏ? Trong bụng phân vân, hồi hộp. Lạy trời cho đúng là thuyền tiếp tế đến từ đất liền như Tư Máy Cày hy vọng. Thực phẩm đổi được ăn tới chiều nay là vừa hết. Nếu không được tiếp tế thì làm sao bây giờ. Vàng hết rồi, đồng hồ cũng hết rồi, đô la thì không có… Cờ hình trăng lưỡi liềm màu đỏ? Trăng lưỡi liềm là biểu hiệu của Hồi giáo, vậy ghe nầy chắc của các hội từ thiện Hồi giáo Mã Lai. Thôi kệ cũng có chút hy vọng, miễn là được tiếp tế chút ít cầm hơi… Sơn đứng kế bên đập mạnh vào vai tôi kêu to:
– Trên thuyền có anh Chiêu…
Tôi rán hết sức nhìn thấy có hai ba người đứng trên khoang chỉ chỏ.
Sơn tiếp tục nói lớn:
– Kìa kìa anh Chiêu đứng kế bên thằng Hiếu. Có thằng cha Mã Lai mập đứng kế bên.
Tôi mừng quá, nước mắt ứa ra, miệng hỏi lia lịa:
– Coi cho kỹ phải thằng Chiêu thiệt không, coi chừng lầm với ai…
Chiếc ghe tiến lại gần, gần hơn nữa, lá cờ phần phật. Trong khoang chun ra thêm một người mặc áo trắng.
– Anh Chiêu rõ ràng, phải rồi anh Chiêu với thằng Hiếu…
Lúc đó cả trại túa ra đen nghẹt trên bờ cát. Người người nôn nao hồi hộp. Tôi mừng muốn ngộp thở. Chiêu đã được bình yên trở về. Trời ơi, còn nỗi sung sướng nào hơn nữa. Từ đây lòng tôi không còn dằn vặt áy náy. Lúc đi có anh em đầy đủ, nào ngờ giữa đường gặp phải cảnh bất trắc phải bỏ lại Chiêu trên bờ đất lạ bơ vơ. Bên tai tôi người ta bàn tán xôn xao ầm ỹ. Bọn lính trong đồn đã ra tới. Thuyền ghé sát vào bờ. Bây giờ tôi mới thấy rõ Chiêu mặc áo ngắn quần cụt đứng với vài người Mã dân sự. Hiếu ngồi một bên. Thuyền chở thực phẩm tiếp tế chất khẩm cả khoang. Nước lắp xắp ngang be. Thuyền rấn lên bờ cát ngừng hẳn. Chiêu nhảy tòm xuống nước bước bì bõm đi lên. Xám Mã Chải nghe tin em về, mừng quá nhờ người cõng ra gặp Hiếu. Hiếu vì bị đánh ở chưn còn đau nên không đi bình thường được. Hai anh em ôm nhau, đứng một chưn, một chưn cò cò, mừng mừng tủi tủi. Cái số gì mà kỳ cục, hai anh em vượt biên đều bị cà nhắc. Chiêu vừa tới bờ thì anh em chúng tôi vây quanh nó tíu tít. Mừng quá Chiêu nói muốn hụt hơi. Tôi nhìn thấy mắt nó hấp háy mới nhớ ra Chiêu bị cận thị nặng, quay qua kêu mấy đứa em:
– – Đứa nào chạy về lều lấy cho nó cặp kiếng.
Vừa dứt lời thì Tiến, vì đã đem theo sẵn, tròng cặp kiếng vào mắt Chiêu. Được đeo kiếng cặp mắt nó sáng hẳn ra.
– Chiêu nè, cái ghe nầy của hội nào vậy? Tại sao treo cờ lưỡi liềm đỏ?
– Hồng Thập Tự Mã Lai đó. Nó tiếp tế cho mình. Ở bên Marang người ta biết bên nầy bị đói thành ra chở ra đây nhiều lắm. Có sáu bao gạo một trăm kí, hai bao đường, mấy chục thùng sữa, cá hộp, trà, muối…
Tôi nắm lấy tay nó:
– Em bị đánh có sao không?
Nó rờ lên đầu, gãi gãi tóc:
– Em bị nhẹ, tụi nó đánh ở đầu với ở lưng em chạy tuốt ra biển. Còn thằng Hiếu bị nặng hơn, nó bị rách da đầu và gãy ngón chưn út, phải vô nhà thương để vá lại. Bây giờ nó đi cũng chưa được. Ở Marang em được đưa vào trại tỵ nạn gặp anh Phùng Quang Tuấn làm trưởng trại. Ảnh có hỏi thăm anh. Em gặp vợ chồng anh Khải, ảnh có viết thơ cho anh…
Từng câu nói của Chiêu làm cho tôi sung sướng bồng bột. Tuấn dạy chung với tôi ở Trịnh Hoài Đức, Khải-Hoàng thì cùng quê. Trước ngày vượt biên Khải bị xe bộ đội đụng gãy chưn phải bó bột, tôi chở Khải bằng Honda để xuống Chợ Lớn đăng ký lên ghe. Tất cả được bình yên hết. Cũng nhờ trời thương. Nơi đất lạ mà gặp lại nhau thì mừng biết bao nhiêu. Nhưng mừng nhứt là gặp lại Chiêu với Hiếu còn lành lặn. Chiêu trở về đảo với một thùng hành lý xin được ở Marang. Nó lục trong thùng đầy quần áo xin được, trong đó có mấy gói tép phơi khô, đưa cho tôi một gói:
– Hồi ở bển, em rảnh đi xúc tép ngoài bờ biển, tép con nhiều lắm, phơi khô để dành. Em biết bên đảo không có gì ăn hết. Tụi lính Mã nó bỏ đói mình để mình phải lòi vàng ra cho nó, khi mình hết trơn rồi nó mới tiếp tế cho ăn…
Nghe Chiêu nói, tôi mới sáng mắt ra. Thiệt ngu quá, có như vậy mà cũng không biết cứ nghĩ tụi lính tử tế chịu cực chịu khổ đi về đất liền mua thực phẩm cho mình.
– Anh biết không trại Marang là trại của những người đã được tuyển lựa để đi đệ tam quốc gia nên được nuôi tử tế. Mỗi bữa được phát cơm trắng với hột gà, canh cải luộc, gan ướp càry… Mà tụi Mã Lai nấu ăn bằng dầu dừa hôi hôi, ăn ngán lắm nên người ta đổ bỏ đầy ắp thùng rác…
– Trời, hột gà luộc với gan càry mà chê hả? Bên nầy tụi anh không có cơm trắng mà ăn! Chỉ cách nhau có một khoảng biển mà bên no bên đói. Để khi nào anh được qua đó, anh ăn hột gà với gan càry cho em coi. Nghe nói không cũng thấy ngon rồi!
Hai anh cùng cười. Nỗi vui mừng khiến tôi no ứ. Bây giờ ở bờ cát người ta bu quanh chiếc ghe như ngày hội lớn. Mấy người Mã Lai dân sự làm thủ tục bàn giao thực phẩm với Tăn Ku. Tụi lính chọn người khỏe mạnh xuống thuyền chuyển đồ tiếp tế lên đồn. Ai cũng háo hức nhìn đống thực phẩm đầy nhóc trên ghe tuy trong bụng đói meo. Cả đảo đã nhịn đói cả tuần, bữa có bữa không. Sáu thanh niên trai tráng chia nhau khiêng một bao gạo một trăm kí. Người nào người nấy đi xững vững, bao gạo tuột lên tuột xuống coi bộ không kham. Chiêu vì lúc trước nhà có bán gạo nên biết cách khiêng. Nó giành khiêng một mình một bao. Bao gạo đè nặng lên vai coi bộ nó cũng đuối sức. Phì Lũ thấy vậy bước tới giành lấy bao nghiêng vai đỡ lấy rồi đi thẳng về đồn. Anh bước đi chắc chắn vững vàng. Một trăm kí lô trên vai mà đi như không, mạnh thiệt tình.
Phì Lũ người Tàu độ chừng ba mươi bảy, ba mươi tám. Lúc còn ở Bạc Liêu thấy anh đi chiếc Toyota Corolla có tài xế bộ đội lái, người bệ vệ to lớn, đẹp trai, mới nhìn qua cứ tưởng ông lớn nào. Nào ngờ trời xui đất khiến lúc đi khiêng gạo lại gặp nhau. Căn lều của anh cất y như villa nghỉ mát ở Vũng Tàu, sàn lót bằng ván, vách dừng bốn phía, cũng có hành lang thụt ra thụt vô, cổng chánh cổng phụ, trang trí đẹp lắm. Nếu đem đấu xảo thì lều Phì Lũ được chấm hạng nhứt khu tỵ nạn đảo Dừa liền tức thì. Suốt ngày anh ta cặm cụi cưa cắt đục đẽo, tánh tình hiền lành vui vẻ dễ thương. Tụi thằng Cương với thằng Dân thủy thủ xì xầm rằng vàng với đô la của Phì Lũ cả bó. Điều đó không biết có đúng không?
Sau đợt khiêng gạo, mọi người chia nhau khiêng cá hộp, sữa hộp, đường trà… Ai nấy đều vui mừng hiện lên nét mặt. Như vậy là không sợ bị đói nữa rồi, người ở đất liền đã biết tới đám người tỵ nạn ở đảo. Có cảnh sát biết, có Hồng Thập Tự biết. Buổi tối đó cả trại vui như Tết. Chiêu trở về ở chung với mấy đứa em tôi. Tôi qua lều tụi nó, dưới ánh đèn tù mù, nói chuyện tới khuya. Nhờ anh em đông nên lều được cất khá lớn và rộng rãi. Câu chuyện nổ dòn như bắp rang. Bây giờ Chiêu như một cái gạch nối, liên lạc tin tức giữa đảo với đất liền. Trên nửa tháng trời trên đất Mã Lai mà chúng tôi có biết gì đâu ngoài chuyện Tăn Ku với bà Chiều Tím, chuyện mấy thằng khỉ đột Zăm Bri, thằng võ sĩ rụng răng Johny, thằng già dê “ti đu,” thằng già Adidas… rồi hết. Nếu có ai hỏi tôi rằng Mã Lai cảnh vật ra sao, tôi không ngần ngại mà nói rằng ở đó dừa nhiều lắm, chỗ nào cũng có dừa mọc. Đất nước Mã Lai trong tôi lúc bấy giờ là đảo Dừa! Tôi biết chỉ có bao nhiêu đó mà thôi. Theo Chiêu thì ngoài trại Marang để dành riêng cho những người đi định cư còn có trại Bidong, Kota Bharu, Kuantan, Mersing, Pésa, Mérang, Kuching… trại nào cũng chứa người tỵ nạn đông lắm. Lần lượt nó nói tới các thủ tục để đi định cư ở đệ tam quốc gia… Tôi ngồi nghe mê mẩn trong đầu tưởng tượng ra đủ thứ chuyện kỳ thú, chuyện nào cũng hấp dẫn say mê. Trong lều cây đèn dầu cặn làm bằng hộp lon lượm được, tỏa ánh sáng tù mù, mùi khói hôi rình. Mặt mày đứa nào đứa nấy nhá nhem không rõ. Nhưng tôi thấy hết được niềm vui của tụi nó trong câu nói, trong tiếng cười, trong hơi thở. Tôi biết rất rõ vì tình cảm của tôi đối với Chiêu ra sao thì các em tôi cũng y như vậy. Chiêu dễ thương quá, nó tốt đối với mọi người.
Trong khi anh em tôi hàn huyên tâm sự thì văng vẳng từ xa vang tiếng chửi lộn ồn ào. Tôi rán lắng nghe. Ban đêm gió lồng lộng, tiếng chửi chợt thoắt chợt hiện. Lần nầy rõ ràng tiếng người Tàu chửi nhau bằng tiếng Việt. Giọng nói líu do. Tôi bước ra khỏi lều thấy một đám người lố nhố ngoài bãi cát. Chiêu bước ra theo tôi:
– Chắc là vụ thằng Hiếu với Hủ Tiếu rồi. Hồi còn ở Marang nó có nói với em khi về thế nào nó cũng kiếm Hủ Tiếu để thanh toán.
Tôi chợt nghĩ ra:
– Ừ ừ đúng rồi hôm trước thằng Xám Mã Chải cũng có chửi Hủ Tiếu một lần về vụ bỏ thằng Hiếu với em ở lại Marang…
Trên bãi cát một bóng người cao lêu khêu đi hướng về lều anh em tôi đang đứng, chừng lại gần mới biết là Dân “gì đó.” Nó ôm lấy Chiêu mừng rỡ:
– Hồi chiều gặp anh mà chưa nói chuyện nhiều gì đó. Tính lại chơi hồi nãy mà bị cái vụ gây lộn của Xám Mã Chải với Hủ Tiếu phải ở lại coi gì đó.
Tôi xen vô:
– Sao Dân thấy cái gì vậy nói cho tụi anh nghe coi…
Nó quơ tay cười hở miệng thấy cái răng vàng sáng lên trong bóng đêm:
– Anh em thằng Xám Mã Chải nhảy cò cò đòi đánh Hủ Tiếu. Đám Hủ Tiếu đông quá có A Son, A Tài, Nhựt Bổn dàn ra nên tụi nó không làm gì đó được. Cuối cùng rồi hai thằng phải vịn vô nhau đứng bên ngoài lều chửi vọng vô gì đó cho vợ con Hủ Tiếu nghe. Nó chửi đủ thứ chuyện… Nhưng bây giờ thì hết chửi rồi.
– Bộ Hủ Tiếu xin lỗi nó hả?
– Đâu có Hủ Tiếu cũng chưởi lại chớ đâu có xin lỗi gì đó.
– Nhưng tại sao lại không chửi nữa?
Nó lại cười nhăn chiếc răng vàng:
– Chửi làm sao được nữa gì đó. Thằng “ti đu” xách đèn pin đi xuống kêu “ti đu, ti đu” gì đó um sùm. Ai nấy riu ríu đi vô lều ngủ hết gì đó. Thằng Hiếu với thằng Xám Mã Chải cũng nhắc cò cò gì đó đi về. Có muốn chửi nữa cũng không được!
Nói xong nó nắm tay Chiêu hỏi:
– Anh Chiêu cũng bị bỏ trên bờ y như Hiếu gì đó nhưng anh có ghét Hủ Tiếu không?
Chiêu suy nghĩ một hồi khá lâu, trả lời:
– Không. Theo anh thì không buồn gì Hủ Tiếu hết. Ở địa vị của ông ta thì phải làm sao bây giờ. Đổ bộ xuống thì không được, ghe đông người quá mà tụi Mã Lai làm dữ không cho, ở lại hoài thì neo đã đứt sóng đánh hoài tàu lắc lư chịu làm sao nổi, chỉ có cách là bỏ ra đảo như vầy rồi thủng thẳng tính… Trước sau gì mình cũng gặp nhau mà.
– Ừ em cũng nghĩ như vậy. Không phải em binh Hủ Tiếu gì đó, nhưng em thấy anh em Xám Mã Chải nóng quá… À à hồi nãy khi tụi nó chửi lộn gì đó em thấy có một chuyện gì đó ngộ hết sức…
Nói xong nó đứng nhăn hàm răng cười. Cái thằng thiệt tình, khi nào có chuyện gì éo le, ly kỳ thì nó tỉnh rụi.
Tôi nghe nó nói xong, chờ hoài sốt ruột hối:
– Mầy thấy chuyện gì mà ngộ hết sức. Nói đại cho rồi chuyên môn cù cưa cù nhằn. Ba cái vụ gây lộn thì loay hoay cũng có bao nhiêu, chớ có cái gì mà ngộ?
Nó bỗng ngưng cười, hỏi tôi:
– Anh biết cô em vợ Quách Linh Hoạt không?
Tôi ngạc nhiên:
– Cái thằng nầy, đương nói chuyện gây lộn tự nhiên xen vô hỏi chuyện đàn bà con gái. Bộ Dân muốn anh làm mai cho cô đó hả. Ừa con nhỏ đó coi được lắm à nghen. Hồi còn ở Bạc Liêu anh thường lại chơi với Quách Linh Hoạt, con đó đẹp mà cũng dễ thương lắm.
Dân “gì đó” lại cười đập vào tay tôi:
– Đâu phải em muốn gì đó. Tầm bậy nè. Hồi nãy khi anh em Xám Mã Chải chửi Hủ Tiếu thì cô đó đứng cạnh bên anh Hiếu. Anh Hiếu đứng có một chưn có lần muốn ngã, ảnh vịn vô vai cổ… mà cổ đứng im ru!
Rồi nó kết luận ngon lành:
– Chắc hai người quen nhau gì đó lâu rồi…
Tôi cười ha hả: — Cái thằng nầy nghi bậy nghi bạ. Hổng cho Hiếu vịn vai, xô nó ra nó té làm sao. Cái gì mà thắc mắc lạ lùng. Thằng Hiếu còn trẻ đẹp trai, con nhỏ đó đẹp gái, hai đứa có đá lông nheo thì cũng hợp lý hợp tình. Thôi thằng Hiếu được trở về đảo cũng mừng cho tụi nó… Mà em để ý mấy cái đó làm chi?
Tôi thấy thằng Dân “gì đó” có vẻ lựng khựng, bèn hỏi:
– Mà anh hỏi thiệt nè, nếu quả thiệt con nhỏ đó thương thằng Hiếu, em có buồn gì đó không?
Nó trả lời xuội lơ:
– Thiệt mà, em đâu có thương ai. Thôi em về, mai em qua chơi gì đó với anh Chiêu… Cũng khuya lắm rồi… cả trại đã ngủ hết gì đó!
Nó về rồi tôi mới thấy mình lãng nhách. Chọc làm gì để nó nói chuyện nghe cho vui. Tối nay rằm hay mười sáu, trăng lên co tròn như cái nia tỏa ánh sáng vàng nhàn nhạt. Trăng lốm đốm hình thằng Cuội già ngồi dựa gốc cây đa sù sì, trong bụng ôm một giấc mơ. Cuội mơ tìm người yêu đã bao năm qua? Chắc Cuội không đẹp trai hay Cuội vì nhút nhát quá không dám nói, cứ ngồi ôm gốc cây hoài?
Nó quay về bước chầm chậm tránh gay góc hầm hố, dáng lêu khêu lỏng khỏng. Bãi cát loang loáng ánh trăng. Gió thổi mạnh từng cơn, lá dừa xào xạc trên đầu. Tôi phân vân trong bụng câu chuyện vừa rồi, không biết là Dân “gì đó” kể lại vụ Hiếu vịn vai em vợ Quách Linh Hoạt là do tình cờ chứng kiến nhắc lại cho vui hay là anh ta ghen tức?
– Chiêu nè, em đoán coi Dân “gì đó” có gì đó với em vợ Quách Linh Hoạt không?
Chiều cười trả lời:
– Làm sao biết được chuyện trong bụng nó, cũng dám có lắm à nghen!
Rồi hai đứa xúm nhau cười ngất, chia tay nhau về ngủ trong niềm vui sướng đầy tràn. Cuộc đời tự nó vốn đẹp và dễ yêu hết sức, nếu mình biết cách lựa lọc những chi tiết ngộ nghĩnh chung quanh với một cõi lòng khoan dung vui vẻ và nhân ái. Cũng như biển cả bao la thu nhận tất cả nước đục và trong của muôn ngàn sông suối đổ về. Nước đục cùng rác rưởi cặn cáu lắng dần xuống tận đáy đại dương sâu thẳm rồi mất hút, còn lại là khối nước trong xanh muôn đời reo vui.
Sáng sớm hôm sau, cả nhóm sắp hàng đi lãnh thực phẩm. Chị Thùy Dương, thay mặt đám tỵ nạn làm trưởng toán đã nằm dài trong lều lập danh sách hồi tối hôm qua dưới ánh đèn cầy khi tỏ khi mờ. Nhờ có Bi nên gia đình tôi được kể ba người. Mỗi người được lãnh bốn lon gạo, một lon đường, một hộp cá mòi nhỏ cùng trà và muối. Gia đình nào có trẻ em dưới hai tuổi được thêm mỗi em năm hộp sữa đặc có đường. Hộp sữa hiệu Blue Cross màu xanh cao gấp đôi hộp sữa Ông Thọ của mình. Sướng quá, vừa hết gạo thì được tiếp tế đúng lúc. Cả đảo bừng lên sinh khí, mặt mày ai cũng tươi rói cười nói rần rần. Người nầy chạy qua lều người kia để mồi lửa nhúm bếp. Các bếp mấy hôm trước lạnh tanh, nay lửa đỏ reo vui bập bùng. Con nít tràn ra đầy bờ biển chạy giỡn nô đùa như những ngày mới tới. Gạo Mã Lai xay thật trắng, thật nở nhưng ăn không dẻo hơi khô bời rời và lạt nhách. Tư Trần Hưng Đạo khám phá ra cách nấu cơm bằng nước biển mặn và truyền bí quyết lại cho. Mỗi khi nấu cơm tôi cầm cái gàu mên đựng gạo đi tuốt ra ngoài bờ nước, nơi có nước trong. Vo gạo xong rồi múc nước biển về nấu. Cơm chín ăn ngon hơn là nấu với nước giếng. Còn mì gói thì ngon hơn mì Chợ Lớn làm. Được phát nhiều nhứt là mì nấm. Tôi bắt đầu ăn cơm trở lại, chương trình nấu cháo dẹp qua một bên. Cá hộp ít quá, chỉ mới vài ngày là hết. Mấy ngày sau ăn cơm trộn mì. Mì trở thành đồ ăn để ăn với cơm. Buổi sáng lấy sữa khuấy với đường, vợ chồng cha con có được bữa điểm tâm sang hết sức.
Cái ăn đã có rồi phải lo tới cái ở. Theo Chiêu nói chắc còn phải ở đảo nầy lâu lắm. Việc cần thiết là phải che lều, không thể tiếp tục cảnh màn trời chiếu đất như vầy, rủi gặp một trận mưa lớn thì sao? Mấy người xung quanh ai nấy cũng đã tìm cây, tìm văn dựng lều từ lâu rồi. Tôi nhìn quanh nhìn quất trong đống củi vụn ở gốc dừa có hai cây cột bự cỡ một tấc vuông dài độ một thước, được người ta lấy ra từ các ghe mục, không dùng được việc gì nên bỏ đó. Tôi è ạch khiêng về, xin thêm vài cây tre của Út Trung còn dư, bao nhiêu đó cũng đủ vật liệu cất một cái lều nhỏ như hồi xưa che lều chơi trò đám cưới. Chú rể là tôi nè, Duyên làm cô dâu là xứng đôi vừa lứa, còn Bi thì làm gì đây? Thôi làm khách đi dự đám cưới, đứng vỗ tay cho vui… Cái lều được dựng bằng hai cây cột bự đó, thấp chủm, gác mái lên lều anh Tư Trần Hưng Đạo. Mái lợp bằng lá cọ hình rẽ quạt giống như lá dừa nước. Gia tài chỉ có con dao nhỏ. Tôi cầm dao rủ Chiêu và Dân “gì đó” thì theo để phụ ôm lá vác về, cả ba đi sâu vô rừng vì ở các vùng gần và dễ đi người ta đã cắt sạch trơn rồi. Ở phía tận bên trong rừng xanh thăm thẳm, cọ mọc từng bụi lớn san sát um tùm. Rẽ cỏ mà đi vì chưa có dấu chưn người. Tôi lựa những cọng cọ lớn lá xanh dầy cắt một hơi cả ôm, nhiều quá ba đứa vác không muốn nổi. Về tới tôi lựa ra chất ngang chất dọc đầy trên nóc lều. Thế là xong cái mái. Rồi chạy ra mé biển lượm sợi dây đỏi ghe đem về tách nhỏ ra cột chặt các tàu lá cho khỏi bay. Vào trong lều nhìn lên trời tuy thấy còn nhiều tia nắng nhỏ nhưng đã dễ chịu hơn lúc còn che tấm ny long mỏng manh. Các ngày sau tôi lại vô rừng cắt thêm lá sắp lên nóc cho dầy thêm. Lều kín đao hoàn toàn. Bốn bề cũng bằng lá cọ che kín, mặt hướng ra biển có chừa một cái cửa nhỏ để ra vô. Trong lều giăng xong cái mùng là vừa hết chỗ. Dưới sàn trải cát phẳng phiu rồi lót tấm ny lông lên trên làm nền. Đi đứng nằm ngồi cát bám đầy. Chỉ có cái lều nhỏ cheo leo trên bờ biển sao mà hạnh phúc quá sức. Tôi còn mong gì hơn!
Không, tôi vẫn còn mong chớ. Mong ngày được dời qua đảo Bidong, nơi đó có trại tỵ nạn, có Cao Ủy Liên Hiệp Qốc, có phỏng vấn để được đi định cư… Mỗi sáng, mỗi chiều tôi bồng con ngóng trông ra biển, chờ đợi. Bi sau khi kêu được vài tiếng ba ba, má má, đã bắt đầu bập bẹ. Những lúc trời mát mẻ, nó nghiêng mình ra phía trước chưn đạp chòi chòi vô hông đòi… đi chơi. Hai cha con thường thơ thẩn đi dọc theo bờ nước. Những chiếc ghe mục rã đầy sỏi cát rong rêu nằm rải rác đây đó. Bao nhiêu ghe đã tắp vô đảo Dừa hoang vắng, bao nhiêu người đã đặt chưn lên bờ cát nầy, tôi không biết. Chỉ biết vào khoảng chín giờ sáng hôm đó trời đã chan hòa ánh nắng trên biển xanh, một chiếc ca nô cảnh sát sơn màu trắng chữ xanh chạy vun vút từ ngoài khơi vào đậu cặp cầu tàu. Nó kéo theo một ghe vượt biên nhỏ xíu. Đám đông bu quanh, tôi bồng Bi chen vào. Mọi người nhìn chiếc ghe lom lom. Nó nhỏ quá. Chiếc ca nô cảnh sát đã nhỏ, nó đậu cặp sát bên, nhỏ hơn thấy mà sợ. Ở cầu tàu sóng nhỏ lách chách vậy mà nó trồi lên hụp xuống như sắp lật tới nơi. Nó chỉ lớn hơn chiếc xuồng tam bản chút xíu. Tôi nhìn kỹ trên ghe ai nấy đều tươi tỉnh, thầm đếm tất cả được mười một người, phần lớn là đàn bà con nít, chỉ có hai người đàn ông thay phiên nhau lái. Hỏi thăm được biết các người đó ở Tân Định, bà chủ ghed làm y tá ở bịnh viện đô thành. Bà người Huế, dáng người lanh lẹ tháo vát chỉ huy cáng đáng mọi việc. Bà sửa soạn chiếc ghe chu đáo và ra khơi. Khi ngang qua Côn Đảo gặp sóng gió tưởng đâu đã chìm may nhờ trời thương, thoát khỏi. Tối hôm qua ghe ủi đại vào bến Marang cả đám kéo nhau vô ngủ trong một trường học. Bà nói tới cái địa danh Marang, tôi nhớ lại cái bãi tắm ghe tôi bị bắn đuổi ra, Chiêu Hiếu lội vô bờ bị đánh đập, bèn hỏi:
– Khi vô Marang bà có bị tụi nó làm khó dễ gì không?
Bà cười, vẻ tự tin:
– Cũng không có gì khó khăn lắm. Tôi đã chuẩn bị sẵn vàng đưa cho nó một ít. Nó tìm chỗ cho chúng tôi tạm nghỉ qua đêm rồi sáng nay kéo qua đây. Xin không được thì phải mua…
Trời, chuyện dễ như trở bàn tay như vậy, một người đàn bà bình thường cũng nghĩ ra được, vậy mà cả ghe tôi trên ba trăm người không ai biết cách giải quyết hết, thiếu điều chết lên chết xuống. Hủ Tiếu ơi là Hủ Tiếu, bị anh em Xám Mã Chải chửi cho một trận nghĩ cũng đáng đời! Ngu quá là ngu…
Tư Trần Hưng Đạo kề tai tôi:
– Ê bồ, bây giờ tôi cho bồ mười lượng vàng, bồ vượt biên từ Việt Nam trở qua với chiếc ghe nầy, dám không?
Tôi lắc đầu le lưỡi, trong bụng thầm phục bà y tá Huế và gia đình nầy can đảm hết sức. Và trong cuộc vượt biên vĩ đại của toàn dân Việt Nam gồm cả miền Bắc, miền Nam, đường thủy, đường bộ biết bao nhiêu gương can đảm, anh hùng nữa mà tôi không biết?
Tôi quay qua hỏi lại:
– Còn anh thì sao?
Anh Tư nheo mắt:
– Thì cũng y như bồ vậy, tôi đâu có biết lội.
Nói xong hai anh em cùng cười rồi quay về lều. Trời đã bắt đầu nóng gắt. Tôi để Bi xuống cho đỡ mỏi tay. Duyên bắt đầu vo gạo để nấu cơm trưa. Thằng nhỏ đi chập chững vài ba bước cuối cùng ôm cứng lấy tôi miệng bập bẹ:
– Ghe vượt… biên… ghe vượt biên…
Trời đất ông địa ơi, thằng Bi nói được mấy cái tiếng nầy rồi. Tôi ngồi im để coi nó nói lại ra sao. Thằng nhỏ níu lấy cánh tay tôi kéo mạnh, chỉ ra biển đòi đi chơi:
– Đi coi… ghe vượt biên, đi coi… ghe vượt biên!
Tôi phì cười, bồng nó lên bước ra bãi cát, mới có chút xíu mà biết nói ghe vượt biên rồi. Chắc nó nghe mấy đứa nhỏ nói chuyện ầm ỹ nên bắt chước theo. Hai cha con bồng bế nhau đi trở ra cầu tàu. Chiếc ca nô cảnh sát đã đi mất. Đám bà y tá người Huế đang lo dựng lều tạm nghỉ ngơi. Tôi nhìn ra biển thấy một chiếc ghe xam xám đi ngang. Dám ghe vượt biên nữa lắm. Tôi chú ý nhìn kỹ hơn. Một lá cờ trắng treo ở cột định hướng. Nắng loang loáng trên biển xanh. Đúng rồi, ghe Việt Nam mình. Đám con nít đang nô đùa trên sóng, chợt thấy ghe chạy ùa lên la hét ầm ỹ:
– Ghe vượt biên… bà con ơn ghe vượt biên!
Đám người trong lều lại túa ra lần nữa. Trên bãi cát ngoài những cây dừa cao vút là những trái tim nồng nhiệt đón chờ, tất cả đều náo nức kêu to:
– Vô… vô…
Tụi lính trong đồn, giờ nầy chắc đang ăn cơm trưa nên chưa thấy bóng dáng anh nào, ai cũng sốt ruột lo sợ tụi nó ra cản trở gây khó khăn. Út Trung cầm cái khăn tắm phất lia phất lịa. Chiếc ghe xả hết tốc lực đâm thẳng vô bờ. Khoảng cách càng lúc càng gần. Tôi thấy hai chữ Phú Quí vẽ ở mũi ghe. Vậy là ghe nầy xuất phát từ đảo Phú Quí ở Nha Trang. Bi vỗ tay, miệng bi bô:
– Ghe vượt biên, vô… vô…
Thằng nhỏ coi bộ vui hết sức, không hiểu nó nghĩ gì trong cái đầu non nớt kia. Tôi nhìn chiếc ghe phăng phăng trên sóng, xúc động nhớ lại những ngày trước đây cha con tôi cũng ở vào cái hoàn cảnh nầy. Ghe đã vô gần tới bờ. Thằng Johny, thằng “ti đu” đã chạy ra hầm hừ. Nhưng không kịp nữa rồi, chiếc ghe đã rướn lên bãi cát và dính cứng ở đó. Trên ghe lố nhố toàn thanh niên, không thấy ông già bà cả cùng con nít. Cũng không đông lắm chỉ độ hai mươi người. Tiếng ồn ào của đám đông mừng rỡ. Người ta cười nói, vỗ tay, la hét. Tăn Ku cũng vừa ra tới với đám thủ hạ. Nó chận đám đông lại không cho lại gần nhau. Bọn lính đứa nào đứa nấy đầy vẻ bực tức nóng giận. Số người mới đến được dẫn ngay lên bờ và bị biệt lập. Tất cả được dẫn về đồn sau khi đã bị lục soát lấy hết vật dụng, hành lý. Không biết do đâu mà người ta biết được nó đi từ Phú Quí (Nha Trang) đến đây đúng mười một ngày. Chiếc ghe hầu như bị hư nặng. Dưới lườn bị nứt những khe nhỏ bằng ngón tay. Nước vô đầy khoang sắp chìm, cũng may tới nơi kịp lúc. Cũng thời hai ghe vô đảo cùng một buổi mà những người thuộc ghe Tân Định được dựng lều thong thả cũng như liên lạc tiếp xúc với đám chúng tôi thoải mái. Trong khi đó ghe Phú Quí bị đối xử khắc nghiệt hơn. Họ bị cô lập gần như giam lỏng ở trong đồn, không ai được tiếp xúc. Mấy thằng Mã Lai nầy kỳ cục thiệt, không ai biết nó tính chuyện gì. Vài ngày sau vào buổi sáng sớm, có tin cho đi Bidong, cả đảo ùn ùn mừng rỡ. Nhưng đi qua Bidong bằng cái gì bây giờ, không ai biết hết. Tăn Ku từ trên đồn đi xuống, lo le cây gậy trong tay, sấn vô từng lều ra lịnh cho thanh niên trai tráng phải ra mé biển sửa soạn ghe tàu để chuẩn bị chuyến đi. Tôi giao Bi lại Duyên tâm trạng nửa mừng nửa lo. Mừng là sẽ được rời Kapas nhưng lo là đi qua Bidong bằng gì bây giờ. Trên bến không có một chiếc ghe nhỏ ghe lớn nào để chở số người quá đông đảo hiện có. Tôi ngó quanh ngó quất chỉ thấy những xác ghe hư mục sét rỉ cùng chiếc Phú Quí sắp chìm. Còn chiếc tam bản của bà y tá Tân Định thì cũng đầy vẻ tang thương, con mắt ghe sơn ở mũi chỉ còn phân nửa, một nửa đã bị tróc mất. Hết rồi, còn chiếc nào nữa đâu, ngó tuốt ra khơi chỉ thấy sóng dồi lớp lớp.
Út Trung đi bên cạnh nói:
– Chắc nó đưa mình đi qua Bidong bằng chiếc Phú Quí nầy.
Tôi trề môi lắc đầu:
– Cái ghe gần chìm, máy móc liệt hết trơn làm sao mà đi đâu. Bộ muốn giết hết tụi mình sao?
Đám người đông đảo đã tề tựu trên bãi cát, Tăn Ku đến đứng giữa lo le cây gậy ngắn trên tay cái mặt nghinh nghinh đáng ghét, chị Thùy Dương đứng cạnh thông dịch:
– Có lịnh ở trên cho biết là tất cả sẽ được chuyển qua trại Bidong. Vậy yêu cầu những thanh niên khỏe mạnh đẩy chiếc ghe nầy ra khỏi cát lún…
Nó lấy gậy chỉ chiếc Phú Quí nằm kẹt cứng trên bờ rồi nói tiếp:
– Pulau Kapas nầy với Pulau Bidong gần lắm. Chiếc ghe sẽ có thợ lại sửa chữa cho tốt. Rồi sẽ chở tất cả qua bên đó, chia làm nhiều chuyến đi. Yêu cầu các anh rán sức…
Nó vừa dứt lơi, cả đám vỗ tay hoan hô mừng rỡ. Pulau Bidong… Bidong niềm mong mỏi chờ đợi của tất cả chúng tôi. Không chờ nói tới lần thứ hai, mạnh ai nấy ùa xuống biển ra sức đẩy xô. Thôi kệ, tuy cũ kỹ nhưng nếu sửa chữa đàng hoàng thì ghe vẫn còn tạm dùng được. Có cũng còn hơn không. Ở đảo nầy gần hai mươi ngày rồi, buồn quá. Chiếc ghe vì lấy trớn quá mạnh để ủi vô bãi bây giờ nó kẹt cứng ngắt trong cát. Cả trăm thanh niên khỏe mạnh reo hò vang dội, dùng hết sức đun đẩy ghe cũng không xê xích một phân. Nó dài cỡ chừng mươi thước bằng cây vậy mà nặng hơn sắt cục. Tăn Ku sốt ruột ra lịnh cho thằng khỉ đột Zăm Bri cầm gậy đi lùng từng lều kiếm thêm người. Lần này có thêm được gần mười người tiếp sức nhưng đa số già cả lụm cụm. Ngoài biển bấy giờ có thêm một chiếc ghe cảnh sát. Như có chuẩn bị từ trước, nó từ từ cặp vào chiếc Phú Quí dùng dây lớn cột đằng trước mũi ghe, tất cả mọi người đều ùa về phía sau lái đẩy tới. Ghe được kéo đằng trước, xô đằng sau từ từ nhúc nhích. Anh em mừng rỡ, reo hò ra sức. Một chút… một chút rồi một chút nữa. Nó di chuyển từ từ, ghe cảnh sát tăng vận tốc nổ máy inh ỏi, chúng tôi rán hết sức bình sanh. Chiếc Phú Quí được kéo dần ra xa hơn, xa hơn nữa cuối cùng nó thoát khỏi cát lún, nổi bềnh trên sóng nhấp nhô. Cả đám vỗ tay cười lớn mừng rỡ reo vui. Tất cả mọi khuôn mặt sáng tươi rạng rỡ. Chỉ còn chờ thợ tới sửa cho kỹ càng, châm thêm dầu mỡ, coi lại máy móc là có thể yên chí ra đi. Tôi cúi xuống rửa tay xong, vui sướng đứng ngắm chiếc ghe. Nào ngờ thằng võ sĩ rụng răng Johny tự nhiên kéo cò súng lên đạn rốp rôp, chĩa thẳng vào đám đông ngơ ngác đuổi hết lên bờ. Đi nữa, đi nữa, ra xa… tất cả phải trở về… Đám cảnh sát cũng ùa xuống ghe cấm người người ra khỏi lều. Tôi đứng lấp ló trong cửa, thắc mắc trong bụng, cái gì kỳ cục vậy? Các lều xung quanh cũng thập thò, những gương mặt ngạc nhiên sững sờ. Không ai biết được chuyện gì sẽ xảy ra. Tụi Mã Lai nầy sao cũng giống Việt Cộng, làm việc kín đáo và bí mật, nhứt là dối trá.
Trước mặt tôi bây giờ là một đoàn người bị áp tải ra ghe. Các bạn của chiếc Phú Quí bị biệt lập hôm trươc và có thêm vài thanh niên của chiếc Rạch Giá tới từ lâu. Đi kèm xung quanh là toán lính đằng đằng sát khí, vừa đi vừa nạt nộ. Những anh em tỵ nạn thất thơ thất thểu quần áo xốc xếch cố gắng chống cự trong tuyệt vọng để mong được ở lại. Có một người trạc độ ba mươi lăm, ba mươi sáu dáng trí thức đeo kính trắng bước ra tranh luận với Tăn Ku. Hắn không nói không rằng lấy hết sức đánh mạnh vào đầu vào cổ của anh. Cây gậy phang vun vút. Anh đưa tay đỡ gạt. Cái kiếng văng xuống cát bể nát. Đám lính xông vào tha hồ đấm đá. Anh gục xuống tả tơi như cái mền rách. Tôi nghe nhói trong tim. Một nỗi đau đớn khôn cùng. Cả người tôi sững sờ, tê dại… Khi anh ngất đi tụi lính xúm lại khiêng bỏ lên ghe. Các người còn lại sợ hãi thất thểu leo lên theo. Tuy ở khá xa tôi cũng cảm thấy những tiếng kêu đau đớn, những gương mặt thất thần, những dòng nước mắt tuôn trào… lòng tôi tan nát.
Chiếc ca nô cảnh sát đi trước dòng theo sau chiếc Phú Quí bập bềnh ngoan ngoãn như con cừu non. Không một bàn tay vẫy tiễn đưa. Tôi rán nhìn kỹ trên ghe, không thấy một ai nhúc nhích. Còn gì để nói nữa. Cả đảo ngậm ngùi cho những người bạn tỵ nạn xấu số. Tư Trần Hưng Đạo chun qua lều than thở:
– Tụi Mã Lai nầy mọi quá, nó đánh người dã man. Phải chi mình đi luôn qua Singapore, ghé vô đây làm chi, khổ quá nè trời. Nó kéo trả về Việt Nam thì chết cả lũ. Không biết tại sao mà nó lại kéo chiếc Phú Quí ra khơi?
Thấy anh rầu rĩ lo lắng mà tôi run.
– Anh Tư nè, theo anh thì các bạn trên chiếc Phú Quí hiện giờ ra sao? Có cách gì để thoát được không?
Tư Trần Hưng Đạo suy nghĩ một hồi:
– Ra tới hải phận quốc tế tụi Mã sẽ chặt dây để đuổi trở về Việt Nam. Mấy “dã” có thể rán cầm cự cho đừng chìm, lênh đênh tắp vô một bến khác hoặc chờ gặp một ghe nào rộng còn tốt xin quá giang… cái đó là mình hy vọng, còn thực tế thì gặp đâu tính đó, đâu ai biết trước được. Tất cả mọi sự đều… nhờ trời!
Buổi chiều tối hôm đó cả đảo im vắng khác thường. Không còn tiếng nói chuyện nô đùa, không có kẻ nhàn du, đám con nít cũng đâm run thôi không chạy giỡn. Hình ảnh ban sáng đè nặng trong tâm tư tất cả mọi người ở lại. Chiếc Phú Quí mục nát như một ám ảnh chập chờn. Cái bánh lái cong queo, dưới lườn những lằn nứt rộng cỡ ngón tay, máy nổ rền rĩ như ông già lên cơn thở dốc… Nhưng biết làm sao bây giờ, con cá đã nằm trên thớt chỉ còn biết chờ chảo mỡ sôi! Tôi vụt nghĩ tới chiếc BL 1648 của tôi. Chiếc Phú Quí dầu sao cũng còn nổi trên mặt nước, còn chiếc BL 1648 bây giờ đã chìm tới ngang hông, làm sao mà chèo cho tới Bidong? Tôi nhìn Duyên và Bi tự hỏi — bao giờ thì tới phiên mình?
Chiếc Phú Quí vừa bị kéo ra khơi ngày hôm trước thì ngày hôm sau vào buổi trưa êm ả, ở tận ngoài khơi một ghe tỵ nạn xuất hiện. Người ta lại túa ra đầy trên bãi cát la ó vang rân. Kẻ ngoắc, người hô. Bi lại đòi tôi bồng đi coi ghe vượt biên. Hình như thời gian ở đảo nầy nó chỉ nói được có câu đó — ba, ba, đi coi… ghe vượt biên. Chiếc ghe đen loáng nắng không đoái hoài gì tới đám đông đương kêu gọi, vẫn bình thản đi luôn. Mọi người tiu nghỉu, giải tán từ từ. Còn lại trên bãi một số người ngóng trông chỉ chỏ. Tháng nầy biển thật êm, sóng chỉ gợn lăn tăn như trong mặt hồ. Nào dè một lúc sau nó lại quay trở lại nhưng chạy chậm chậm không có vẻ gì muốn vô. Đám người trong đảo lại một lần nữa vẫy tay reo hò kêu gọi. Nó do dự một hồi rồi mở máy thật mạnh đâm thẳng vào bãi. Tụi lính Mã khi hay kịp thì chiếc ghe đã vào tới bờ. Chiếc nầy khá lớn dài khoảng mười bốn thước, tình trạng còn khá tốt. Người trên ghe lần lượt leo xuống xác xơ, tơi tả, phong sương. Có đàn bà, con nít, độ bốn mươi người. Một ông già mặc quần áo nông dân bồng một đứa nhỏ khoảng mười tuổi nằm thiêm thiếp trên hai tay. Cái chưn của đứa bé bị thương được quấn bằng vải trắng đẫm máu đỏ tươi. Mặt em bé trắng bệch vì kiệt sức. Chúng tôi bao quanh, người nào cũng lộ vẻ ái ngại. Bà y tá Tân Định cùng cô con gái lớn chạy về lều lấy dụng cụ thuốc men cùng bông băng lại săn sóc. Tội quá! Thằng bé xanh mét nằm im không nhúc nhích. Cuộc hành trình trên biển đã ngất ngư rồi lại còn bị thương nữa, làm sao chịu nổi. Cũng may sao lại được vào Kapas sớm và cũng may lại có hai mẹ con bà y tá Huế ở đây. Tụi lính Mã Lai thấy có người bị thương cũng trơ mắt ra đứng ngó, chúng cũng không biết phải làm sao. Hôm nay chúng lại yên lặng không đuổi xô, không bắt biệt cư những người mới tới. Cũng không hiểu tại sao. Tôi thấy ông già bồng đứa nhỏ khi nãy đã rảnh rỗi đứng không, bèn lại hỏi chuyện:
– Thưa bác, mấy người trên ghe có cần nước uống cho đỡ khát?
Ông khoác tay vẻ vạm vỡ, nói năng chững chạc:
– Cám ơn cậu, không cần, còn nhiều lắm. Tôi có đủ hết!
Từ trong khoang những người thanh niên trai tráng lần lượt khiêng đồ đạc dụng cụ lên bờ. Có lẽ ông già nầy là chủ ghe nên đồ đạc gồm có đủ thứ, mấy cái lu đựng nước ngọt, hai cái tủ đựng quần áo, một cái tủ đựng đồ ăn, mấy cái ghế cùng hai cái bàn. Ngoài ra là quần áo, dao kéo lủ khủ. Đặc biệt nhứt là cái chuồng chim, bên trong có con sáo nhỏ. Thiệt tình tôi chưa từng thấy ai vượt biên mà được như ông.
– Bác khởi hành từ đâu vậy? Tôi thấy em bé bị thương…
– Tôi ở Gò Công, ghe nầy của tôi đó. Mấy đứa nầy là con cháu không hà, tôi không rước người lạ mặt đâu. Từ bển qua tới đây êm xuôi quá nào dè khi vô tới bờ Mã Lai bị tụi nó bắn đuổi đi, đạn lạc trúng vô chưn thằng con út tôi. Trên ghe đâu có thuốc men gì, phải lấy vải băng đỡ. Ghe phải bỏ đi nơi khác, mãi mới tới đây…
Tôi nhớ tới Marang, nhớ tới người Mã Lai ở trong khoang thuyền chui ra có cây súng bắn vào chiếc BL 1648, may mà không trúng ai. Tiếng ông già đều đều:
– Khi đi tới đây tôi thấy có nhiều gian lều che tạm, thấy có xác ghe vượt biên, biết là có người tỵ nạn mình nhưng chưa dám vô, sợ bị bắn nữa. May nhờ mấy cậu ngoắc nên liều mạng vô đại…
Xong rồi ông hỏi lại tôi:
– Cậu vô đâ bao lâu rồi. Ở đây lâu biết cái gì hay chỉ cho tôi với.
– Dạ chỉ mới có trên hai mươi mấy ngày thôi. Có người ở trên hai tháng rồi đó bác. Lúc nầy thì không sợ đói nữa, có Hồng Thập Tự Mã Lai tiếp tế rồi, chuyện cơm gạo khỏi lo. Có điều tụi Mã nầy chờ mình ổn định xong thế nào cũng kêu tập họp để xét kiếm vàng. Bác rán dấu cho kỹ, đừng cho tụi nó lấy uổng lắm. Nhớ cất luôn đồng hồ, cà rá…
Rồi tôi dặn dò:
– Hay nhứt là đào lỗ chôn dưới cát, nhớ kỹ chỗ mình chôn. Khi nó xét xong mình đào lên lấy lại…
Ông già gật đầu cám ơn, bình thản. Tôi chợt thấy một người trạc ba mươi bảy, ba mươi tám đứng riêng một mình dưới gốc dừa. Tướng tá liền lạc, vẻ mặt đẹp trai hao hao giống Thành Được. Nhưng nét mặt nầy là nét của người Bắc chớ không giống nét người Gò Công, con cháu của ông chủ ghe. Gương mặt sáng sủa, cử chỉ đàng hoàng, tôi bèn lân la làm quen:
– Anh đi mấy ngày mới tới đây. Ghe coi còn tốt quá…
– Đúng ba ngày ba đêm. Tôi có đủ hải bàn và hải đồ của chuyến đi…
Tôi đoán đúng phóc, anh ta nói giọng Bắc.
– Tôi lái từ cửa Cần Giờ đâm thẳng qua tới đây. Cũng may mùa nầy biển êm.
– À thì ra, anh là tài công nên tôi thấy không giống người trong gia đình của bác chủ ghe…
Anh ta thấy tôi làm quen nên dễ dàng tâm sự:
– Từ Việt Nam qua Mã Lai nầy đi cũng không khó lắm. Trong nghề cũng quen. Ngày trước tôi là Trung úy Hải quân, sau bảy mươi lăm bị đi học tập. Bị hành hạ đủ kiểu giận đời giận mình tôi liều gan trốn trại, trở về Sài Gòn. Nhà tan cửa nát tứ cố vô thân, sống trốn chui trốn nhủi bữa đói bữa no, đêm ngủ ngoài hè phố…
Tôi nhìn anh cảm động. Anh giải nghĩa:
– Cũng còn bạn bè, người quen nhiều nhưng không dám nhờ vả sợ bị lộ. Ngủ ở đường xá vậy mà bảo đảm, hễ thấy động thì trốn được liền…
Rồi anh cười:
– Y như cái bang bốn túi… tự nhiên biến thành đệ tử Hồng Thất Công!
Tôi nheo mắt nhìn nghiêng, chọc:
– Cái bang mà đẹp trai sáng sủa như anh… thiệt cũng khó trốn tụi công an dữ. Làm sao mà qua mặt nó được. Tui mà làm công an là xét giấy anh liền…
Cả hai cùng cười. Anh mặc cái quần tây dài rách gối, ở trần da sạm đen vì nắng gió nhưng ánh mắt sáng ngời niềm vui. Anh tiếp:
– Trong lúc lúng túng không biết làm sao thì may quá, bác chủ ghe đang tìm một người tài công, một người bạn giới thiệu tôi nhận lời liền, không điều kiện gì hết…
Ở gần giếng nước những người mới tới tắm rửa, giặt giũ, lấy nước nhộn nhịp, người nào người nấy quần áo tả tơi, râu tóc rối bời. Trong đám đông đó bao nhiêu người tài giỏi, những người con yêu của đất nước, cũng như anh bạn mới nầy, chỉ cần trời đất nổi một cơn gió bụi là tất cả giá trị đổi thay. Giàu nghèo, sang hèn, tốt xấu… nhiều khi do mình quyết định nhưng cũng có khi do trời! Tôi nắm tay anh từ giã, nói câu hy vọng:
– Thôi kể từ giờ chúng mình kể như hết xui, từ từ làm lại cuộc đời…
Anh cười, tôi nói tiếp trước khi ra về:
– Tối nay là Mã Lai xét lấy vàng với đồng hồ đó. Có cái gì giấu được thì giấu đi.
Nắng đã đổ lửa, tôi biết Duyên đang chờ cơm nên vội đi về. Đôi dép đứt che nóng không nổi đôi chưn nên nghe như muốn phỏng. Tôi nghĩ về người rồi nghĩ về mình, tự nhiên đang sống đời dạy học yên vui rồi bỏ nhà bỏ cửa lang thang nơi góc biển chơn trời, nằm trên bãi cát nóng khô mà chờ đợi… Thiệt tình Định Mạng cũng khá cắc cớ, lấy con người ra làm trò chơi, hèn chi hàng ngàn năm trước Trang Tử đã phải thốt “thiên hạ bất nhân dĩ, vạn vật như sô cẩu,” lấy rơm bện hình con chó để trên bàn thờ sì sụp cúng tế, cúng xong rồi đem đốt quăng ra vỉa hè. Cũng thời là một vật khi thì coi quý, khi thì chê bai. Đời là vậy đó. Bắt phong trần phải phong trần. Cho thanh cao mới được phần thanh cao. Tôi quay lại nhìn thấy anh bạn tài công Thành Được đứng bên gốc dừa bập bập điếu thuốc rê. Anh đưa tay vẫy vẫy… Đúng là cùng một kiếp bên trời lận đận, có cùng chung hoạn nạn mới hiểu và thương nhau!
Út Trung ở trần đen thui, từ đằng xa chạy lại, hai tay khệ nệ ôm lấy một vật gì lớn cỡ trái mít dáng hối hả lật đật. Tới chừng lại gần mới biết là một cục nước đá bám đầy cát bụi, trời nóng nước tan nhểu ròng ròng xuống mặt cát trắng khô lốm đốm hình sao. Tôi thấy cục nước đá, tự nhiên mồ hôi tươm ra:
– Bộ chú Út mò được ở đằng ghe quốc doanh đó hả. Ở đảo nầy mà có được nước đá lạnh thì đã thiệt… Lâu quá không được uống lạnh thèm hết sức!
Trung vừa nói vừa hít hà hai bàn tay đỏ ửng vì cầm cục đá quá lâu:
– Một hầm chứa đầy nhóc ở dưới khoang. Người ta đương giành ào ào trên đó. Em lẹ tay lấy được cục nầy… Phải kiếm một cục đá để đập nhỏ ra…
Thiệt đúng với câu “Sống là tranh đấu.” Từ ngày xuống ghe tới giờ, tôi thấy muốn có cái gì cũng phải giành giựt. Lẹ tay thì còn, chậm tay thì hết… trơn. Anh bạn trẻ nầy lẹ tay lẹ chưn thiệt tình. Mà phải vậy mới tranh nổi với tụi thằng Cẩu Chải, thằng A Son, A Tài… Bi lần đầu tiên uống đá lạnh trố mắt nhìn sững, đẩy cái lon ra. Tôi cố ép. Thằng nhỏ uống thử thấy được, bèn đòi uống riết. Út Trung cầm lon đá lạnh vừa uống vừa lắc lanh canh. Tôi uống một hơi nghe mát lạnh từ kẽ răng đến chưn tóc. Đã thiệt tình!
Hồi sáng nầy một chiếc tàu quốc doanh đến đảo. Nó to như chiếc tàu sắt và mới hơn chiếc BL 1648 của tôi, từ ngoài khơi bao giờ, không ai thấy (có lẽ vì lớn quá người ta chỉ chú ý các ghe vượt biên nhỏ! Cái gì nhỏ thì mới đáng thương?) lừng lững tiến thẳng vào bờ, hiên ngang đậu cặp cầu tàu. Nó uy nghi, đường bệ nên cả đám đông đứng ngây người ra nhìn quên mất việc vỗ tay reo hò mời đón như lệ thường. Hai bên thành được vẽ sơn đỏ đậm nét số ghe Quốc Doanh Kiên Giang 069. Vững chắc, đẹp đẽ, nó đậu sừng sững bên bờ đảo Dừa. Tăn Ku cùng đám bộ hạ lên ghe kiểm tra. Trên tàu còn nguyên vẹn hai giàn lưới cá loại lớn nhứt với đủ máy móc cần trục và các hầm tôn, hầm cá. Chiếc nầy vượt biên trong khi đi lưới nên không đem theo gia đình và hành khách. Từ tài công đến thủy thủ chỉ vỏn vẹn có sáu người. Tôi nhìn cái tàu mà ngẩn ngơ. Nếu so với chiếc BL 1648 thì nó có thể chứa ít nhứt là năm sáu trăm người…
Út Trung sau một hồi uống lạnh tỉnh táo bèn nói:
– Thằng Tăn Ku kỳ này no đủ. Nó lấy nguyên một hầm tôm lớn. Nó bắt mấy người đứng coi ở gần phải khiêng về đồn.
Tôi tiếp:
– Hầm tôm đó ăn thua gì. Nó sẽ bán hai giàn lưới nè, gỡ máy ra bán luôn, bán dầu diesel chạy máy, bán phụ tùng dụng cụ, cái gì bán được gỡ ra bán hết cho các ngư phủ xung quanh xong rồi đục bỏ vỏ tàu để cho chìm… Như vậy kể như chìm xuồng. Sáu người trên tàu đem nhập chung với đám tụi mình. Ai biết? Tha hồ về Kuala Trengganu du dương với người đẹp!
Út Trung tiếp:
– Hồi nãy có nghe nó nói còn mấy hầm cá đem phát cho mình. Thế nào chiều nay mình cũng có cá ăn. Nước đá lấy hết rồi, không cho cá tụi mình, nó ươn sình lên hết sao?
– Có nước đá uống rồi lại có cá tươi ăn, sao mà sướng quá vậy chú Út? Chắc tụi mình sắp lên hương rồi…
– Cũng chưa sướng lắm. Em mới nghe người ta nói một tin sướng hơn…
– Tin gì mà sướng dữ vậy?
– Bà Chiều Tím muốn cạnh tranh với mấy thằng lính Mã, hạ giá hàng hóa xuống phân nửa. Bây giờ anh muốn đổi cái gì cũng được gấp đôi lúc trước… Mà không có vàng bây giờ thì có thể thiếu chịu, mai mốt chừng nào có thì trả!
– Trời, bả chịu chơi ngon lành. Nhưng hiện tại thì đâu còn thiếu hụt như trước nữa. Hồng Thập Tự tiếp tế lần thứ hai rồi. Thiếu chịu thì khoái thiệt đó nhưng trước hay sau gì cũng phải trả cho bả chớ… hổng lẽ giựt…
Vừa nói tôi vừa nghĩ ngợi. Tự dưng bà Chiều Tím lại hạ giá hàng gấp đôi, sao kỳ lạ vậy? Chắc là lời nhiều quá rồi, đổi rộng rãi hơn để lấy tiếng chăng? Vô lý, trên đời nầy có ai cho rằng mình đã giàu quá, không cần tiền nữa! Còn hạ giá để cạnh tranh thì càng vô lý.
Tụi lính Mã đi qua đất liền mua bán trực tiếp bên đó, còn bà ta phải nhờ Tăn Ku mua dùm, làm sao được giá rẻ hơn. Thiệt là nhức cái đầu nghĩ không ra. Thiệt tình khi nào có chuyện gì liên quan tới người đẹp là đầu óc tôi rối mù, không tính chuyện gì ra chuyện gì được.
Đằng xa thằng khỉ đột Zăm Bri đi lại lều, tay cầm một rổ cá nhỏ. Trong những ngày gần đây, tôi và nó có dịp gặp gỡ, nói chuyện. Cái thằng coi cục mịch xấu xí nhưng thiệt thà chất phác. Tôi thường hỏi nó về đời sống, phong tục, tập quán người dân Mã. Nó cũng thường hỏi tôi về chuyện Việt Nam. Tôi khoái nó ở chỗ khi nói tới Cộng sản, nó thù ghét dễ sợ. Hình như ở Mã Lai không còn bóng dáng một người Cộng sản nào. Một phần nhờ chánh phủ quyết tâm tiêu diệt, một phần nhờ đa số dân chúng theo Hồi giáo. Tôi khoái đạo Hồi ở chỗ đó. Thử tưởng tượng trên trái đất nầy vào lúc chủ nghĩa Cộng sản hưng thịnh, các nước với tài nguyên dầu lửa phong phú Trung Đông cùng xứ Mã Lai, xứ Indonésia… mấy trăm triệu dân đó sẽ ngả theo Cộng sản tức thì nếu họ không theo Hồi giáo… Và lúc đó cục diện thế giới sẽ ra sao?
Thằng Zăm Bri đưa cho tôi rổ cá, những con cá nhỏ cỡ hai ngón tay, mặt buồn buồn:
– Báo cho mầy một tin vui, ngày mai sẽ có ghe chở tụi mầy qua đảo Bidong.
Út Trung thoáng nghe, khựng lại. Tôi như nín thở:
– Thiệt không Zăm Bri, bộ ngày mai tụi tao được đưa qua Bidong hả. Mầy làm sao biết được?
Nó quơ quơ cây gậy:
– Tụi tao đã chuẩn bị ghe xong rồi. Có tất cả là ba chiếc để chở. Ngày mai sẽ có người đến để đưa tụi bây đi…
Tôi bắt tay nó thật chặt, cảm động mừng rỡ:
– Tao cám ơn mầy nhiều lắm. Tối nay mầy có rảnh xuống đây chơi với tụi tao. Mai tao đi rồi, qua bên đó không biết bao giờ gặp lại nhau.
Tôi xúc động thiệt tình. Nó đứng lặng im. Trời trưa đứng nắng. Tôi không cảm thấy nóng chút xíu nào. Tôi đã ở đảo Dừa nầy đúng một tháng tròn. Tôi với nó quen nhau thường vậy thôi, chớ không thân thiết gì nhưng không biết tại sao lúc sắp chia tay như trưa nay, tôi bị xúc động mạnh. Hay là tại nó đem cho riêng tôi một rổ cá? Có lẽ nào?
Nó đi về đồn, cái dáng lặc lè chưn thấp chưn cao. Tôi mang một tâm trạng nửa buồn nửa vui hỗn độn. Út Trung nắm lấy hai vai tôi:
– Vậy là anh em mình ngày mai qua Bidong rồi. Khoái quá!
Trung vừa nói vừa reo vui, bỗng nhiên nó bật kêu lên:
– À, à, em hiểu ra rồi, tại sao bà Chiều Tím hạ giá hàng hóa, bán đổ bán tháo, gạo đường sữa chất cả lều không kêu người bán rẻ cho hết cũng phải đem cho, hổng lẽ hai vợ chồng khom lưng ra vác hết qua Bidong để làm gì bây giờ?
Út Trung thiệt là thông minh, có bao nhiêu đó mà tôi nghĩ không ra. Bà Chiều Tím đáng thương của tôi ơi! Ở đời có nhiều chuyện xảy ra mình không đoán trước được. Nếu biết được trước thì giàu sang mấy hồi. Đống hàng hóa đó bây giờ phải làm sao? Thôi, cái gì của Tăn Ku phải trả lại cho Tăn Ku!
Tôi ngửa cổ uống một hơi dài cạn lon đá lạnh, tìm chỗ cất cái lon xong rồi đứng tần ngần nhìn cái lều nhỏ xíu, lá cọ đã đổi sang màu vàng khô, rồi nhìn sang cái bếp, ba cục đá chụm đầu nhau đen thui màu khói than, trong đó còn một vài tàu dừa cháy dang dở… một tháng trời sống thiếu trước hụt sau nhưng rất vui vì còn có vợ con, anh em, bạn bè… và một niềm hy vọng ở ngày mai.
Trời vừa sụp tối, tôi và Duyên đã pha xong một bình trà thiệt lớn. Gói trà được thằng võ sĩ rụng răng Johny cho nhân lúc đổi hàng dùm Tuyết-Tiến. Thứ nầy khi pha phảng phất mùi trái vải lúc uống thêm đường cát trắng thơm ngon, khác hẳn các loại trà tàu. Anh chị Thuần đem qua một dĩa mứt dừa lớn. Những lát dừa được xắt mỏng ướp đường trắng bong khéo léo ngon lành. Anh chị Tư Trần Hưng Đạo có một gói kẹo đủ màu, chị Thùy Dương, Tiến, Chiêu, Dân “gì đó,” Sơn, Út Trung đến với niềm vui. Có cả thằng Zăm Bri và thằng “ti đu” đến chơi từ giã. Như vậy là cả trại yên tâm dọn dẹp chuẩn bị cho đến khuya để mai lên đường, khỏi sợ bị bắt buộc “ti đu, ti đu” như mọi bận. Cái đệm ngồi được trải phẳng phiu trên bãi cát trống trước mặt lều, cây đèn dầu để ở giữa. Trời tối đen như mực, đêm nhiều gió nên ánh sáng lắt lay chỉ chực tắt. Mặt người khi mờ khi tỏ. Vì khá đông nên người người ngồi sát nhau ấm áp, thân tình, lòng đầy phấn khởi vì biết chắc ngày mai sẽ được qua Bidong. Pulau Bidong, cái tên sao mà hấp dẫn quá sức! Một tháng chờ đợi ở đảo nầy, kẹt cứng mất cả liên lạc với bên ngoài. Ở đây tuy vui nhưng hiu quạnh quá. Thời gian một tháng là quá lâu, bỏ phí thời giờ vô ích.
Thằng Zăm Bri không nói không rằng, cầm ăn hết miếng mứt dừa nầy đến miếng khác.
Tôi hỏi:
– Ở Mã Lai có loại mứt ngọt như vầy không? Làm bằng dừa xắt mỏng ra đó…
Nó lắc đầu:
– Không có đâu, tao ăn thấy ngon và lạ…
– Vậy mai mốt mầy không có việc gì làm, hái dừa rồi xắt mỏng ra ngào với đường cát trắng làm thành mứt ngọt như vầy nè, ăn để nhớ tới tụi tao…
Nó cảm động:
– Ừ ừ tao sẽ làm y như vầy… Mấy ngày có tụi bây ở đây vui quá…
Chị Thuần cười cười ngó nó nói:
– Vui thiệt không đó, tao thấy mầy tối ngày cầm gậy đi kiếm người ta để phạt hoài.
Nó cười, ăn tiếp mứt dừa và chưa trả lời câu nói.
Chị Thuần tiếp tục:
– Còn anh “ti đu” nầy nè, mới có bảy tám giờ bắt người ta ti đu. Ti đu cái gì được, chưa ai buồn ngủ hết…
Tư Trần Hưng Đạo xen vô:
– Ti đu sớm quá cả tháng trời như vầy thiệt nguy hiểm, cũng may ở đảo nầy chưa thấy bà nào mang bầu… cũng nhờ trời thương!
Cả đám cười ngã nghiêng. Thằng “ti đu” ngơ ngác, không biết gì. Chị Thuần phải dịch lại cho nó nghe. Hai thằng cũng bắt cười theo.
Chị Tư vỗ vai anh Tư:
– Có mấy cô, mấy cậu còn trẻ nè, ăn nói đàng hoàng một chút nghe. Già cả ưa nói bậy nói bạ…
Bỗng thằng Zăm Bri nói:
– Tụi bây ở đây coi vậy chớ sướng hơn qua bên Bidong, ở bên đó chật hẹp dơ dáy thiếu thốn đủ thứ hết…
Nghe nói ai nấy chới với, ngạc nhiên đảo Dừa nầy mà sướng hơn Bidong sao?
– Ở Bidong không có nước uống, phải tiếp tế bằng tàu, mỗi ngày được mấy lít, không có cầu vệ sinh, phải tự túc dựng lều để ở mà cũng không còn chỗ. Cái đảo nhỏ xíu thua Kapas nầy xa lắm mà chứa tới ba bốn chục ngàn người, nhiều người phải leo tuốt lên sườn núi cheo leo dựng lều… Mỗi lần đưa người qua bên đó tao ngộp thở chịu không nổi, xong việc là về liền…
Nó nói tới đâu tôi ngẩn ngơ tới đó. Bidong… Bidong, cái đảo mà tôi ước mơ, chờ đợi để được qua sao mà tệ quá vậy. Hoàn toàn không có gì hết phải tự túc tự cường. Trời, rồi phải làm sao đây.
Nước thủy triều buổi tối đã dâng cao ngập gần tới gốc dừa, bãi cát hẹp lại. Tiếng sóng ầm ầm mỗi lúc một lớn hơn. Đêm khuya hiu quạnh mịt mùng. Biển cả muôn đời sâu thẳm huyền bí mông lung. Tôi nhìn lặng lẽ gốc dừa mờ mờ nghiêng trên bãi cát, nhớ lại đêm nào mới đến nơi đây. Cả đám lội bì bõm vào bờ mình mẫy ướt mem, tụi lính Mã đốt lên một đống lửa lớn ở chỗ nầy, tất cả bu quanh như trong hang động thời tiền sử… chỉ mới có một tháng mà thấy như quá lâu. Rồi miên man nghĩ về quê nhà không biết ở bên đó bây giờ có còn ai nhớ tới mình không? Cha mẹ ra sao, bạn bè ra sao, tỉnh Bình Dương ra sao…?
Chiêu khêu ngọn đèn cho sáng rồi nói:
– Bên đó thì cực lắm nhưng có Cao Ủy Liên Hiệp Quốc, có điều tra phỏng vấn để cho đi đệ tam quốc gia. Mình phải rán chịu cực trước để được sướng sau, lo gì. Người ta chịu được thì mình cũng chịu được…
Thằng Dân “gì đó” xen vô:
– Ừa, ừa, anh Chiêu nói phải gì đó. Tới đâu thì tới, bi nhiêu thì bi, em không sợ gì đó.
Buổi tiệc tàn lúc gần nửa đêm. Trong phút chốc bốn bên lặng ngắt như tờ. Tôi nằm trong mùng nhìn xuyên qua cửa thấy bầu trời đen nhung nhấp nháy những vì sao sáng lờ mờ ở thiệt xa, thiệt xa. Phải tới bao giờ mới có trăng đây?
Buổi sáng hôm đi trời lại mưa. Trận mưa đầu tiên ở đảo Dừa, trời âm u, mưa những hột nhỏ gió thổi xiên ngang rào rào ai cũng bị ướt mem vì lều dột. Từ trên mái lều những giọt nước thi nhau nhểu xuống. Tôi và Duyên vội lấy áo mưa che trên đầu, ngồi nhìn ra biển chờ tạnh. Mặt biển sóng dâng cao, mờ ảo những sợi mưa bay ngang bay dọc. Cả một không gian đầy nước một màu xám đục. Mưa vừa dứt hột, tôi vội chạy ra nhúm lại bếp để nấu ăn sáng. Trời, một bãi tan hoang. Bếp núc lạnh tanh. Củi khô ướt nhẹp. Tôi lần mò gom lại rán mà nhúm. Củi ướt khói bốc mịt mù. Tắt rồi cháy, cháy rồi tắt. Khổ sở trăm bề…
Ăn sáng xong thì hai vợ chồng lo thu dọn đồ đạc vào xách tay, ba lô. Đồ đạc lình kình làng càng dây nhợ tứ tung. Quần áo giặt chiều qua chưa kịp khô thì bị mưa ướt sũng, thôi kệ nó dồn hết vào túi, qua tới Bidong rồi tính. Khổ nhứt là hai cái gàu mên vì dùng để nấu nướng cả tháng trời nay nên khói đóng đen thui. Phải chùi cho sạch mới để vào xách tay được. Tôi bốc một nhúm cát kỳ cọ cho trắng ra. Ở trên bãi thiên hạ cũng đang ngồi chùi nồi, chùi xoong đen nghẹt. Trời còn xám màu chì, không một tia nắng nhỏ. Những thân dừa đứng ủ rũ trong không khí sũng ướt. Mặt nước biển không trong xanh như mọi bận mà trở nên đục ngầu. Trời mùa xuân mà cứ tưởng mùa thu. Lòng tôi buồn rười rượi. Một tháng trời vui buồn ở đảo Dừa nầy, làm sao mà quên cho được, những hình ảnh thân yêu vây quanh, bám chặt trong đầu. Cái nồi đen quá chùi hoài vẫn không trắng, đang loay hoay thì có lịnh tập họp để khởi hành vì thuyền Mã Lai đã đến. Đó là ba chiếc thuyền nhỏ bề dài độ mười bốn, mười lăm mét, sơn xanh còn mới tinh, đậu song song nhau ở mé nước gần đồn lính.
Toàn trại nhốn nháo. Mọi người hối hả dọn dẹp rộn ràng. Trong phút chốc cả khu dựng lều được thu xếp chỉ còn trơ lại những khung sườn bằng cây và mái lá. Những tấm màn, nệm, dây chạc đều được thu hồi tận tình. Qua bên Bidong còn phải cần dùng lại nữa… Không còn lều của người Việt và cũng không còn lều người Hoa. Cả hai biến mất hết chỉ còn lại rừng dừa xanh mướt ngút ngàn.
Vì thuyền Mã nhỏ nên chỉ chở được đợt đầu tiên ba trăm người, những người còn lại sẽ đi ngày hôm sau. Cả đám ùa ra bờ biển, hướng về phía ghe đậu. Từ khu dựng lều tới chỗ đậu ghe nhìn thì thấy gần nhưng có đi bộ trên cát nóng thì mới biết nó xa trên nửa cây số. Trời lúc đó lại nắng gắt nên chuyện đi dép, khiêng nặng trên cát nóng không phải là dễ dàng. Bé Bi lúc đó đi chưa vững. Duyên một tay ẵm Bi một tay xách giỏ ny lông xanh đựng nồi niêu, vật dụng. Tôi phải xách hai xách tay và khiêng một cái sac marin bự muốn ẹo xương sống. Toàn là quần áo, mùng mền còn ướt nên nặng chình chịch. Nắng đổ lửa trên đầu, cát nóng như rang dưới chưn. Đôi dép lại đứt lên đứt xuống. Mỗi lần mệt quá, tôi dừng lại để thở, nhìn ra phía sau một đoàn người lôi thôi lếch thếch kéo nhau đi một đoàn dài. Mẹ con Bi mặt mày đỏ ửng, lấm tấm mồ hôi, độ chừng đi hết muốn nổi. Hồi mới xuống đảo đồ đạc cũng đâu có bao nhiêu, cũng không biết ở đâu mà bây giờ nhiều quá! Đúng rồi, thêm một số gạo đường sữa của Hồng Thập Tự Mã Lai cho…
Cạnh bên là gia đình anh Tư. Nhờ tới năm con nên mỗi đứa chia nhau khiêng vác vừa đi vừa kêu nhau ơi ới, thằng Dân “gì đó” cũng hai cái xách tay đầy nhóc… Chỉ có Chiêu là lãnh đủ. Ngoài đồ đạc của nó đựng trong xách tay khi đi, bây giờ nó lại có thêm nguyên một cái thùng cây lớn chất đủ thứ ở trại Marang cho. Đâu có ai giúp được vì người nào cũng khiêng vác đầy đầu, đầy tay. Cũng may nó rất mạnh vừa đi vừa nghỉ không biết bao nhiêu bận… Cuối cùng rồi cũng đến chỗ ghe đậu, mọi người để hành lý xuống bờ cát thở phào nhẹ nhõm. Tôi nhờ tới trước nên đi lần xuống nước để leo lên ghe.
Nước sâu cỡ ngang lưng quần, rán sức leo lên. Rải rác cũng có vài thanh niên đã ở trên boong. Chúng tôi đứng dọc theo be để chuyển người và hành lý vô trong. Tất cả mọi người đều phải lội lỏm bỏm xuống nước để được kéo lên. Cũng phải cả giờ đồng hồ, mới đầy hết được cả ba ghe. Tất cả đều ướt mem, nhờ trời nắng gắt nên chỉ trong chốc lát quần áo đều khô…
Ghe nổ máy dòn dã, từ từ tách bến. Bây giờ khoảng hai giờ trưa. Trời thật xanh và biển cũng thật xanh. Tôi đứng trên ghe nhìn lại khu dựng lều lần cuối. Nó đã quá xa không còn thấy gì nữa hết, rải rác những xác ghe hư mục, những cây dừa mọc dầy đặc như rừng, bãi cát vòng cung trắng xóa. Thôi, hết rồi, trong đời tôi chắc chỉ được sống và chứng kiến khung cảnh nên thơ đầy kỷ niệm của Pulau Kapas một lần… rồi thôi! Ghe đi ngang qua cầu tàu. Nó bằng sắt cao sừng sững, lớn quá. Mãi đến bây giờ tôi mới được thấy rõ cái cầu tàu sơn màu xanh nước biển, chiếc BL 1648 đã cặp vào đậu để qua đêm, nào ngờ bị Tăn Ku bắt ép lên đảo. Nơi đây chị Thuần ra nói chuyện với bọn lính, bị đánh té xuống biển… cũng nơi đây tôi mặc quần cụt nhảy xuống nước để lội vô bờ. Mới có một tháng mà như quá lâu…
Qua khỏi cầu tàu là nhà của chúa đảo, tên già Adidas, cất toàn bằng cây rất xinh xắn. Hoa mọc đầy trên các lối đi. Còn gì nữa… Còn gì nữa… Tôi rán hết sức để nhìn. Toàn thể Pulau Kapas chỉ còn thấy các rặng núi xanh xanh hình vòng cung mờ mờ ở xa… rồi thật xa, mất hút. Bây giờ chỉ còn lại cái đuôi nước sủi bọt trắng xóa dài ngoằn của chiếc ghe bỏ lại phía sau lái… với cả tấm lòng nhớ thương lưu luyến Kapas của riêng tôi.
Chương 15
HẢI ĐẢO BUỒN LÂU BI ĐÁT (1)
Tôi còn đứng ỳ ra trên boong. Ðảo Dừa chỉ còn là một khối xám nhạt ở chưn trời. Trời thì cao xa thăm thẳm giáp mí với sóng nước gờn gợn xanh ngắt một màu. Nắng sáng rực rỡ loang loáng trên mặt biển xanh. Ba chiếc ghe Mã lướt sóng phăng phăng, chiếc sau nối đuôi chiếc trước, chạy một dọc thẳng hàng. Không còn gì hết, tôi thẫn thờ ngồi xuống một bên be ghe. Nắng nóng như thiêu như đốt, ghe lại không có mái che nên chỉ trong chốc lát, nghe như muốn bốc khói. Phải kiếm một tờ báo, một cuốn vở học trò để che cho đỡ nóng. Ghe còn rất mới. Sớ gỗ còn tươi nước sơn. Ðinh vít chưa có dấu rỉ sét. Trên boong và trong khoang đều rất sạch sẽ, đồ đạc xếp ngăn nắp chỉnh tề. Có điều rất ngộ là Mã Lai là xứ nóng mà từ tài công đến thủy thủ đều mặc âu phục, quần dài và áo tay dài cài khuy. Họ nói được những câu tiếng Anh thông thường. Những đợt sóng lớn chồm lên, nước văng tung tóe, ghe lắc lư mạnh. Chiêu ói đầu tiên, mặt xanh xám, rồi như bắt chước nhau, thằng Dân gì đó, Sơn ói liên tu bất tận. Phía bên kia, vợ Quách Linh Hoạt cũng ụa liên hồi, mấy đứa nhỏ ngồi bu xung quanh mặt mày bơ ngơ báo ngáo. Duyên cũng bắt đầu váng vất, nàng bèn bồng Bi lên phòng lái ngồi chung với mấy người già yếu. Trên đó có mái che và trải chiếu. Bi nằm ngủ ngon lành…
Ghe đi dọc theo bờ biển Mã Lai. Nhìn lên bờ về hướng trái thấy núi non xanh đen trùng điệp nối tiếp nhau không dứt, bát ngát mênh mông. Ðúng là xứ của núi cao rừng sâu. Ghe có lúc đi gần bờ, tôi rán nhìn thấy được những cao ốc, dinh thự của một thành phố lớn y như một thành phố Âu Mỹ lẩn khuất trong những rặng cây xanh. Có phải đây là Kuala Trengganu mà người ta thường nhắc tới? Những trụ điện cao thế băng ngang qua đồi núi, lẩn khuất len lỏi trong rừng sâu… Ghe vẫn nổ máy giòn giã tiếp tục cuộc hành trình dằng dặc.
Một anh thủy thủ buồn tình lấy dây câu ra câu cá. Ðó là một miếng ván nhỏ hơi dài hình chữ nhựt dùng để quấn dây. Lưỡi câu lớn có cột một chùm lông gà trắng. Dây câu được tuôn ra hằng trăm thước bề dài, kéo lướt trên sóng. Vì ghe chạy quá nhanh nên nó không chìm xuống được. Tôi nhìn cái nhóm lông gà trắng lẫn trong bọt sóng mong có một con cá rượt theo đớp mồi. Sợi dây câu lớn bằng cọng bún, chắc dành để câu cá lớn, giữa biển khơi đâu có cá nhỏ… Ngồi chờ hoài không thấy cá, anh chán nản để dây câu móc vào be ghe, đứng lên mở nắp hầm dưới khoang lấy ra những xắp màn ny lông dầy màu xanh nước biển, quảng cáo với chúng tôi, -Ở Bidong cần loại này để che nóc lều, qua đó mua mắc lắm, bây giờ anh bán rẻ cho. Mời mọc hoài cũng chẳng ai mua.
Cá cũng không cắn câu mà hàng cũng không ai mua, thua buồn anh ngồi xuống lấy thuốc ra hút. Lúc đó từ trong khoang bước ra một người dân sự độ bốn mươi tuổi, có mang súng cồm cộm bên hông. Cũng giống như bất cứ anh công an nào, anh ta nói úp úp mở mở mình không phải là công an. Anh ăn mặc chải chuốt, nón trên đầu, giày dưới chưn, khăn vắt túi, dây nịt khoen vàng, viết vắt ở túi, viết cầm tay ghi ghi, chép chép. Ðúng là một nhơn vật quan trọng. Ghi chép hồi lâu chừng cũng chán, anh ta móc túi lấy ra một cọc tiền Mã Lai dầy cộm, đếm đi đếm lại. Tụi tôi trố mắt ra nhìn. Mấy ngón tay anh lanh lẹ hết sức, lật tờ giấy bạc kêu xoành xoạch. Tay này mà chia bài gian lận thì ai nhìn cho kịp… Xong màn biểu diễn, anh gạ tụi tôi có đồng hồ bán anh mua. Chiêu đương cần tiền vội cởi ngay cái đồng hồ cũ đang đeo. Mới có một tháng đi biển, cái đồng hồ tuy còn chạy nhưng xác xơ. Hơi nước đóng mờ trên mặt kiếng, nước mặn ăn loang lổ vỏ ngoài. Vài ba người Tàu cũng đưa ra vài cái. Anh công an coi tới coi lui rồi chê. Anh đòi các hiệu nổi tiếng như Oméga, Seiko, Orient… Chiêu tưởng là không bán được tính đeo lại nào ngờ nó lại chịu mua, trả giá mười đồng. Tất cả những cái khác nó đều mua hết…
Ghe đi được ba tiếng đồng hồ thì Bidong hiện ra trước mặt. Giữa biển cả sóng gió chập chùng một hòn đảo nhỏ xanh rì nổi lên chơ vơ, hiu quạnh. Có một đảo nhỏ bên cạnh nép kế bên như con rùa con bò kế bên con rùa mẹ. Pulau Bidong lớn hơn đảo nhỏ này nhiều nhưng so với Kapas thì Bidong nhỏ xíu. Từ đây nhìn vào bờ không còn thấy những rặng núi xanh xanh, dầu chỉ là lờ mờ. Chỉ còn trời và nước. Nó xa cách đất liền, trơ trọi giữa biển khơi. Cũng giống y như Côn Ðảo của Việt Nam mình!
Mọi người xúm nhau mà ngó. Bidong đây rồi. Cái nơi tìm kiếm trên cả tháng nay. Nắng lúc năm giờ chiều vẫn còn chói chang. Niềm hân hoan của mọi người trên ghe cũng như ánh nắng lung linh trên sóng. Gần một tháng ở đảo vắng xa cách hoàn toàn thế giới bên ngoài, bây giờ được gặp gỡ nhiều người, biết được nhiều việc, tiếp xúc được nhiều nơi… chắc là thú vị lắm. Phong cảnh rõ dần, rõ dần. Ðảo là một khối hình tròn, giữa có núi đất. Rừng cây chỗ đậm, chỗ lợt. Những thân cây vì ở quá xa nhìn thấy nhỏ xíu đứng song song nhau trong khối lá xanh rì. Những chỗ lợt là những bãi trống loang lổ vì bị cháy rừng hay bị đốn phá bừa bãi…Có những đám khói xám trắng bốc lên ở đỉnh núi. Ở dưới chưn núi, sát mé biển cũng một rừng dừa. Những thân dừa suông đuột vàng lên dưới nắng. Thiệt, cái xứ Mã Lai chỗ nào cũng toàn là dừa.
Một cầu tàu nhỏ bằng cây chạy dài ra ngoài mé nước. Sơn níu lấy tay tôi:
Anh coi kìa, chỗ nào cũng có lều…
Ðến bây giờ thì tôi thấy rõ. Dưới những tàn dừa là những lều cao thấp chen chúc nhau, kề cận nhau, xô đẩy nhau nối tiếp, cái này nhô ra, cái kia thụt vào, hỗn độn rối nùi. Vui quá sức! Cả một sức sống vươn lên. Bidong có cái gì hấp dẫn hơn Kapas. Kapas chỉ là có cái cầu tàu bằng sắt sơn xanh là có bàn tay con người, còn tất cả là thiên nhiên. Bidong thì không. Từ ngoài cầu tàu, đến bờ cát, sâu vô trong, trên ghềnh đá, trong các hốc núi, cheo leo trên thân cây, loanh quanh trên sườn đá đều có bàn tay con người xen vô. Ðủ thứ màu sắc xanh đỏ tím vàng tha hồ mà tô điểm. Tôi trả lời Sơn:
Bidong coi bộ hấp dẫn, anh bây giờ chịu cảnh rần rần náo nhiệt như vầy nè, ở bên Kapas buồn quá sống một tháng mà tưởng chừng một năm…
Sơn nhìn tôi:
Lúc trước cũng anh nói anh thích Kapas yên tĩnh, sống gần gũi hòa hợp với thiên nhiên, bây giờ anh lại nói thích Bidong vì ồn ào náo nhiệt… Sao kỳ vậy?
Tôi cười:
Ừ, anh cũng không biết tại sao khi vầy khi kia. Chắc muốn có cái gì thay đổi… cho cuộc đời vui hơn một chút… Anh chỉ cần mỗi ngày… vui hơn một chút thôi, không đã lắm sao!
Ba chiếc ghe Mã từ từ cặp bến. Cầu tàu bằng cây dài khoảng năm mươi thước, cột dầu cũng bằng cây lớn cắm sâu xuống những thùng phuy đổ đầy xi măng chôn dưới đáy nước. Nước biển trong xanh phản chiếu ánh nắng vàng rực buổi chiều chói mắt. Dưới chân cầu, hàng ngàn người da đen nâu đang nô đùa, lặn hụp trong sóng nước long lanh. Vì ở trên cao nhìn xuống tôi không phân biệt người lớn cùng trẻ con, đàn ông cùng đàn bà, tất cả đều nhỏ xíu xôn xao rộn rịp như đàn kiến. Ba chiếc ghe mới tới như miếng mồi ngon, đàn kiến ngưng đùa giỡn, bu quanh đen nghẹt, người vịn thành ghe, kẻ bám cột cầu tranh nhau hỏi tíu tít đến từ đâu?
Tôi cố nhìn xuống đám người đang lội dưới kia, hy vọng gặp một người quen, nhưng hoài công, không dễ nhìn thấy được. Ai cũng mình trần trụi đen thui, râu tóc dài thậm thượt rậm rì, giống nhau như hệt. Sóng nhấp nhô dưới chưn cầu, người bơi lội nhấp nhô theo sóng. Khi ghe đã cột đõi, chúng tôi được hướng dẫn lên đứng xếp hàng hai trên cầu để ban trật tự của đảo sắp xếp và kiểm soát. Hành lý được chuyển lên để kế bên. Bây giờ tôi mới có dịp đứng yên để nhìn vô đảo. Trên bờ người ta túa ra từ các ngả rầm rộ để coi ghe mới tới. Không thể tưởng tượng được tỷ lệ dân cư ở đảo này. Sao mà đông quá sức, cả rừng người chen lấn xô đẩy nhau. Phần đông đều ở trần, mặc xà lỏn, tóc dài, râu dài, chưn mang dép cao su đủ màu. Loại dép Mã Lai đế rất cao. Họ đứng dầy đặc ở bãi cát, ở dưới những gốc dừa. Cây dừa ở đây cũng cao vút như ở Kapas nhưng thưa hơn, dưới những tàn lá có vài mái nhà tôle, có thể là nhà hội, cơ sở của đảo.
Tôi ngó bên này, rồi ngó bên kia, trong đầu nghĩ tới vài người bạn đã tới trước. Tôi thèm gặp được một người quen lúc này hết sức. Nhìn hoài không thấy được ai, thôi vậy đứng tách riêng ra cho người ta nhìn mình. Nghĩ xong tôi đứng tách ra khỏi hàng, ở vị trí cho dễ thấy… Cho tới khi ban trật tự ổn định sắp xếp xong hướng dẫn cả đoàn đi vào nhà đợi làm thủ tục nhập đảo, cũng chưa gặp được một người quen. Như vậy bạn bè vượt biên của tôi, ở đảo Bidong, chắc là ít lắm. Nhà chờ đợi cũng ở ngay mé biển, bên trái cầu tàu. Mái lợp tôle trắng, các cột bằng cây vuông, nền tráng xi măng, không có vách. Dĩ nhiên cũng không có bàn ghế gì hết. Ba trăm người vào ngồi lủ khủ bên các đống hành lý của mình như món hàng triển lãm, bên ngoài vòng rào thiên hạ chen lấn nhau dòm vào. Nếu lúc thường mà bị dòm ngó như vầy thì khó chịu và mắc cỡ nhưng người tỵ nạn đã vô Bidong ở cái cảnh tận cùng đất đen, nói nôm na một chút là ‘cùi không sợ lỡ’ nữa rồi, còn gì đáng e ngại, quan tâm nữa đâu.
Tôi ngồi trân ra đó, bệt trên sàn xi măng, tai nghe mọi thứ âm thanh vang dội hỗn độn ồn ào xung quanh như trong một cái tổ ong bầu. Người ngồi bên trong nói vọng ra vang vang người bên ngoài chen lấn hét lớn vào, chia tay ở Việt Nam gặp lại ở Bidong xa xôi này không vui mừng sao được. Có những người là bà con ruột thịt, cũng có những người hàng xóm quen biết sơ sơ nhưng dầu là thân hay sơ câu chuyện cũng giòn giã thân tình. Bi phần nóng nực, phần ồn ào nên phát khóc, đòi đi chơi. Duyên vừa dỗ con vừa nói: – Có qua đây rồi mới biết, sao mà hỗn độn rần rần, em muốn ngộp thở. Cái tên Bidong cũng là tiền định, làm em nhớ tới chữ bidonville…
Chắc nàng đang nghĩ tới khu Bàn Cờ, tôi thì nhớ tới những trại tỵ nạn của đồng bào An Lộc, Bình Long vào năm 1972, mùa hè đỏ lửa, cả chục ngàn người bỏ cửa bỏ nhà chạy đổ xô về Bình Dương sống chui rúc trong những căn nhà che tạm bằng bất cứ thứ gì lượm được: cây, ván, vải vụn, thùng giấy cạc tông… sống cảnh màn trời chiếu đất.
Ừ, ừ, cũng ngộ thiệt. Bidong này với bidon kia có khác gì đâu. Gần bốn chục ngàn người sống trên một khoảnh cát nhỏ xíu như vầy. Trên thế giới chắc không có nơi nào tỷ lệ dân cư cao như ở đây. Mà đố em tại sao đảo này có tên là Pulau Bidong? Duyên suy nghĩ một hồi, chịu thua.
Tôi nói cho nàng nghe:
Pulau thì dễ rồi, có nghĩa là hòn đảo, tiếng Việt mình cũng dùng y như vậy gọi là cù lao. Hồi còn ở Kapas có lần anh hỏi thằng Zăm Bri, tiếng Mã Lai nghĩa của chữ Bidong là gì. Nó nói Bidong là rắn. Pulau Bidong là đảo rắn. Chắc ở đảo này rắn nhiều lắm nên mới được đặt tên như vậy.
Nàng hóm hỉnh nhìn tôi:
Vậy Kapas là dừa, Pulau Kapas là đảo dừa…
Tôi cười trừ:
– Cái đó phải kiếm thằng Dân thủy thủ để hỏi, tên đảo Dừa của nó đặt ra đó!…
Lúc đó thì Chiêu đã gặp lại anh bạn học ở Hốc Môn, thơ ký của chiếc 0126C, rồi tới anh Tư Trần Hưng Ðạo, anh chị Thuần, chị Ðiệp gặp được dì Chín, cậu Tám… nhiều nhứt là các người Tàu. Câu chuyện nổ ròn như bắp rang. Tôi ngó mông, ngó mênh mãi cũng không gặp được ai quen. Cho đến khi rời khỏi chỗ tạm trú qua đêm mới gặp được một cô học trò cũ. Mạch Ảnh Lang học ở Hoàng Diệu Sóc Trăng. Cô ta đã tốt nghiệp Y khoa một lượt với Tuyết và Tiến. Cả hai gặp lại nhau mừng rỡ tít tít nói chuyện huyên thuyên. Ảnh Lang đã đến đảo từ mấy tháng trước, ngày mốt là lên đường đi định cư ở Úc. Người trên đảo đông nghẹt như trong hội chợ nên đường sá rất khó định hướng. Nhìn chỗ nào cũng thấy người ta, tôi sợ lạc nên từ giã Ảnh Lang đi theo dòng người về nơi tạm trú. Len lỏi trong rừng người, chen lấn xô đẩy vượt qua một đoạn đường giống như khu chợ trời ở chợ cũ Hàm Nghi, hai bên là những người ngồi bán các loại hàng hóa của Mỹ của Mã Lai trên các thùng cạc tông. Ðường đầy rác rưới, đất cát dơ bẩn lồi lõm quanh co. Mãi rồi cũng tới khu đất trống để tạm trú qua đêm. Quăng cái sắc marin bự cùng cái xách tay xuống đất, tôi ngó quanh. Hỡi ơi! Khu tạm trú là đây sao? Dưới là cát đầy rác rưới, xung quanh la liệt những người bày hàng bán chợ trời, rải rác có các cây dừa cao. Bầu trời đã đầy sao. Trời tối từ hồi nào tôi không hay biết. Trên các sạp thấp lè tè người ta đã lên đèn. Ðèn là các hộp lon coca tim vải, đốt bằng dầu lửa hoặc dầu cặn khói tù mù. Người di chuyển qua lại dùng đèn bấm để soi, ánh sáng chấp chóa, chớp tắt liên hồi. Cả một cảnh tượng hỗn độn, kỳ cục, lạ mắt, một cảnh sinh hoạt tìm không ở đâu có, chỉ trừ ở hải đảo lẻ loi này. (Chợ âm phủ trong các chuyện cổ tích được ghi chép lại chắc cũng y như vậy: các hồn ma cũng đi chợ, cũng mua bán trả giá, cũng dùng tiền giấy, trong những ánh đèn chập chờn…)
Các bạn gặp được người quen đến trước, họ lần lượt đi gởi hành lý và xin ngủ nhờ qua đêm, khỏi phải chịu cảnh màn trời chiếu đất đêm nay. Anh Tư Trần Hưng Ðạo, anh chị Thuần và đám chị Ðiệp, chị Kiều đã đi rồi. Chỉ còn đám anh em tôi, tứ cố vô thân, ngó quanh ngó quất không quen ai để nhờ vả. Một đống hành lý ngùn ngụt, trời tối mò mò. Có vài người đứng nhìn chúng tôi e ngại, họ nhắc khéo nên coi chừng ăn cắp, ở đây hở ra cái gì là mất cái đó… Thôi phải rán tự túc tự cường. Tôi trải tấm ny lông trên bãi cát dơ, cạnh gốc dừa gom hết hành lý dồn đống lại. Ðành đêm nay ngủ đỡ tại đây! Ngồi xuống tấm đệm, dựa lưng vào mấy cái gói xách, tôi duỗi tay chưn. Mấy bắp thịt nhão ra, mỏi nhừ. Ðến bây giờ mới thấy mệt. Cổ họng khát khô. Duyên lục trong túi xách tay tìm được một thùng nước nhỏ, tôi cầm lấy uống một hơi, để xuống, cơn khát đã đỡ nhưng trong lòng cảm giác bơ vơ, trống vắng. Bóng đêm tối đen mù mù, tiếng chưn người xào xạc trên cát, những ánh đèn bấm chớp tắt, chớp tắt…
Sơn và Dân gì đó sau một hồi dạo lên dạo xuống, sợt về. Dân ngồi xuống mặt đệm:
Mình có thể nhắn tin tìm người quen ở phòng thông tin gì đó.
Tôi hăm hở:
Làm sao để nhắn tin?
Anh viết tên tuổi địa chỉ hiện ở cùng số ghe của mình gì đó rồi đem lại phòng thông tin. Ở đó họ sẽ đọc lên loa phóng thanh gì đó cho mọi người cùng nghe…
Sơn lục trong đống hành lý tìm giấy. Không có. Tôi thoáng thấy mấy hộp cá mòi lăn lóc, bèn cầm lên gỡ lấy cho mỗi đứa một tờ nhãn hiệu cá đỏ bầm phía sau còn trắng bong có thể dùng để viết được. Cả ba hý hoáy vội vàng những chi tiết vào tờ giấy nhỏ bằng bàn tay… Tôi cùng đi với Dân và Sơn trở lại con đường hồi nãy rồi quanh về bên trái. Phòng thông tin được cất dưới tàn dừa âm u, bên trong có đèn điện sáng choang, vách cây dừng bốn phía. Tôi đứng ngay cửa sổ, chờ đợi. Sơn đứng kế bên. Cô xướng ngôn viên mặc áo trắng tay tóc ngắn thấy ba anh em tôi đến, quay lại. Sơn mừng quá la lên:
Ơ, chị Ba, em nè.
Cô xướng ngôn viên cũng khựng lại, mừng hết sức:
Sơn đó hả, tới hồi nào vậy, sao không kiếm chị?
Sơn cười tươi rói:
Em mới tới hồi chiều, kiếm phòng thông tin để nhờ nhắn tin tìm chị đây nè!
Nó đưa tờ giấy nhắn tin viết trên lưng nhãn hộp cá mòi. Cô nhân viên trẻ đẹp đó là chị ruột của cô bồ Sơn. Cả gia đình của cô đã tới Bidong trước mấy tháng nay đang chờ đi định cư ở Mỹ. Sơn mừng húm, chạy về xách hành lý để theo tiếng gọi của… con tim. Tôi và Dân gì đó bị bỏ rơi, hai anh em bơ bơ đi trở về.
Ở ‘nhà’ Chiêu cũng không chịu ngồi yên, nó đi đông đi tây, may quá gặp được các người quen ở Bình Dương. Một số vội vàng đến thăm. Tôi từ từ thấy được một góc trời quê hương. Chị Mỹ Á bán vải ở nhà lồng chợ, anh Hưng Thạnh bán gạo ở mé sông cùng vợ chồng anh Liêu Thạnh. Anh Liêu Thạnh còn trẻ độ hai lăm, hai sáu có nhà ở sát cạnh nhà tôi, cũng bán gạo. Cô vợ bồng con còn nhỏ, anh mừng rỡ:
Mấy anh có ăn uống gì chưa?
Tôi vội trả lời:
Từ trưa tới giờ lung tung mọi chuyện nên không có thì giờ. Bây giờ rảnh rồi nhưng bếp núc đâu mà nấu?
Anh lục lục trong cái xách tay, cầm lấy mấy gói mì, miệng lanh chanh nói với vợ:
Coi nè, mấy ảnh có gạo, có mì, có sữa…
Chị vợ mau mắn:
Vậy thì mình nấu mì ăn đi cho vững bụng.
Tôi lo lắng:
Làm sao có bếp, củi để nấu nước sôi?
Anh cười:
Dễ quá, dễ quá, để tôi lo cho, có liền mà. Mấy anh chị chờ một chút nghen…
Anh vụt chạy về. Chừng một lúc sau anh khệ nệ bưng ra một nồi nước đầy nước còn nghi ngút khói. Chị vợ đã kỹ lưỡng cầm theo đủ cả chén đũa. Ðoạn đường từ lều đến chỗ tạm trú cũng khá xa, đường ban đêm quanh co khúc khuỷu tối tăm, anh khiêng nồi nước nóng, cô vợ cầm đèn pin soi đường. Thiệt là ân nghĩa hết sức. Cách cho quí hơn của cho. Trong đời thỉnh thoảng tôi nhận được những tấm lòng thương yêu quí báu của những người thân và không thân. Tôi phải làm sao để đền đáp được những ân tình ấm áp đó?
Tôi ăn một chén mì, thấy đã no, ăn không nổi nữa, có lẽ mệt quá. Sau đó một thanh niên đến hướng dẫn tôi lại lều của dì Sáu để biết chỗ liên lạc với chị Ðiệp. Trời tối đen thui không thấy gì hết, nó đi len lỏi trong đám người đi mờ mờ, đèn đuốc không có, quanh quanh co co mãi một hồi lâu thì đến nơi. Nhìn quanh thì hỡi ơi! Ðó là một cái lều cây nhỏ ọp ẹp, bước vô cửa phải cúi thật thấp nếu không muốn bị đụng bể đầu. Trong lều có sàn duy nhứt hẹp té làm bằng những đoạn cây nhỏ cỡ ngón chưn cái ghép lại. Cái sàn này vừa dùng để hành lý, để ngồi và cũng để ngủ. Cái mặt sàn nổi u nổi nần làm sao mà nằm? Một đống đồ đạc chất gần sát vách choán gần hết phân nửa mặt sàn. Một mình dì Sáu cũng đã chật rồi, bây giờ lại thêm chị Ðiệp với hai con nhỏ và mấy đứa em. Vậy thì phải giải quyết ra làm sao, tôi không biết. Ðông qua, chỗ đứng cũng không có nói chi đến chỗ nằm. Trên boong ghe BL 1648 cũng còn rộng hơn.
Dì Sáu khoe đã mua căn lều này giá một lượng vàng. Nó khá nhứt ở khu này đó! Tôi thụt lùi trở ra và đó là lần đầu tiên biết thế nào là một căn lều ở Bidong. Tôi vội từ giã để về, đêm hôm khuy khoắc. Chết rồi, hướng cũ chỗ nào, trời lại tối đen, thôi cứ đi đại. Tôi len lỏi trong các đường hẻm sình lầy, chưn mang đôi dép đứt đi bước thấp bước cao. Ðường đi lại có nhiều gốc cây nhỏ chặt không sát, thỉnh thoảng trồi lên một gốc, vô ý đá mạnh vào xước da chảy máu, đau thấu tận trời xanh. Mò mẫm đi một hồi lâu ra tới bờ biển lạ hoắc. Nhìn kỹ đây không phải là chỗ lên hồi chiều. Tôi nghe tiếng nhạc bập bùng, giọng ca eo éo, rải rác trên bãi một đám đông nhàn hạ thảnh thơi hóng gió nghe nhạc ké trong quán vẳng ra. Tôi còn bụng dạ nào nấn ná chần chờ ở đây để thưởng thức những giọng oanh vàng. Phải hỏi đường cho kỹ để về khu tạm trú. Tôi hướng về cầu tàu rồi loay hoay cũng về được chỗ cũ. Tôi vừa về tới nơi thì vợ chồng con cái anh Tư Trần Hưng Ðạo cũng trở lại tìm chỗ ngủ. Rồi tới chị Thuần, kế đó là mẹ con chị Ðiệp với mấy đứa em. Thì ra Bidong lòng ai cũng rộng nhưng lều thì hẹp quá, thôi tất cả đành ngủ tạm trên bãi cát dơ!
Chương 16
HẢI ĐẢO BUỒN LÂU BI ĐÁT (2)
Sương khuya lành lạnh, sóng vỗ rì rào, mọi người đã chọn chỗ nằm, tha hồ mà ngắm sao đêm nay. Tôi và Chiêu còn ngồi nhìn đọt dừa nói chuyện. Các gian hàng chợ trời đã dẹp sạch trơn. Trên con đường trước mặt, một người nhỏ con lùn thấp đen đúa, mặc một cái áo thun trắng dài sọc gần tới đầu gối đang đi ngang. Tôi khều Chiêu, thì thầm trong bóng đêm:
– Nhìn nè, có thằng nhỏ không bận quần đi kia kìa…
Chiêu nhìn rồi trả lời:
– Sao anh biết nó không bận quần?
– Có thấy cái quần chỗ nào đâu. Cái áo phủ tới đầu gối. Có thể có mà cũng có thể không. Theo anh đoán thì không có…
Chiêu cười hà hà, hỏi lại :
– Tại sao anh đoán như vậy?
– Dễ hiểu quá mà, ở Bidong nầy trời nực… để trống trải vậy cho mát.
Hai anh em cười hăng hắc, bỗng nhiên Chiêu chợt nhỏm dậy, chạy theo người vừa đi ngang, miệng hỏi:
– Xin lỗi, anh phải anh Năm, Trung Sĩ Biệt Động Quân không?
– Anh Chiêu, anh qua đây hồi nào. Tôi chờ anh mấy tháng nay…
Hai người găp lại nhau, có nhiều chuyện để nói. Tôi rán nhìn kỹ để kiếm coi anh bạn mới, ngoài cái áo thun dài ra, còn có mặc gì nữa không? Tiếc quá, trời tối mò mò, nên không thấy được gì hết trơn! Lần lần qua câu chuyện, tôi được biết anh Năm trung sĩ là người quen với anh rể Chiêu. Lúc trước anh rể Chiêu qua Bidong dựng cái lều cây kế khu chợ trời nầy để ở. Sau đó anh được đi Mỹ có nhờ anh Năm ở lại giữ lều dùm, dặn kỹ là kiếm Chiêu để giao lại. Như vậy cũng đỡ. Anh Năm thấy có nhiều trẻ em còn nhỏ, bèn nói:
– Đằng lều còn chỗ trống, anh Chiêu sắp xếp cho mấy chị có con nhỏ dời qua bên đó ngủ tạm đêm nay đi… chớ ở ngoài trời sương gió như vầy bất tiện.
Tôi sửa soạn khăn và nước uống cho mẹ con Bi đi với chị Điệp cùng Trung, Dung, miệng nói:
– Tụi tôi cám ơn anh Năm nhiều lắm. May mà gặp anh đêm nay, nếu không thì phải ngủ hết ngoài trời.
Anh Năm cảm động:
– Có gì đâu anh, gặp lại Chiêu em mừng lắm. Để em giao cái lều lại cho… Em cũng gần được đi Úc rồi, rủi khi đi mà không gặp được ảnh, em cũng không biết phải làm sao?
Rồi anh cười, nói tiếp:
– Nói thì nói vậy chớ, em cũng đã tính rồi, đâu đó xong xuôi. Cái lều tốt quá, hổng lẽ bỏ uổng, lúc đó chắc phải bán rẻ, kiếm một mớ xài đỡ… rồi khi nào có gởi qua Mỹ trả lại.
Tối đó Duyên ẳm Bi, chị Điệp dẫn Trung, Dung, cô Bằng ẳm bé Linh đến lều của anh Năm. Anh chị Năm nhường chỗ cho những người mới tới. Cả hai ngủ ở hai cái võng mắc vào các gốc cây. Lại một lần nữa vào phút chót, tôi được môt ân nhân, không quen không biết ra tay giúp đỡ.
Còn lại ở đây toàn là người lớn. Tôi trải các quần áo, mùng mền bị mưa ướt buổi sáng ở Kapas chưa kịp phơi khô ra trên các ba lô, xách tay để phơi, rồi nằm ngủ đại trên tấm ny lông dơ, giấc ngủ chập chờn vì sợ người ta lấy cắp đồ đạc. Khoảng một hai giờ khuya, có trận mưa nhỏ, cả đám chạy vào lều bên cạnh núp mưa. Những luồng gió mạnh rít lên từng cơn, thổi tạt những giọt mưa bay ngang rào rào, nước thấm ướt đầu, ướt cổ man mát. Ở phía nhà chờ đợi một ngọn đèn điện sáng đỏ quạnh cô đơn. Chúng tôi lom khom nép người vào vách lều kế bên, nhìn mưa, không ai nói tiếng nào. Cả đảo im lìm, hiu quạnh thê lương… Mưa rồi cũng tạnh, tôi ra ngủ tiếp. Giấc ngủ mê man! Suy nghĩ cho cùng, trong cái khổ cũng có cái sướng. Trong đời chưa bao giờ, tôi được dịp nằm ngủ thẳng cẳng giữa chợ, không mùng mền chiếu gối, một cách bụi đời như tối nay!
Đó là đêm đầu tiên tôi bước chưn tới đảo Bidong, hải đảo nóng bức của vùng xích đạo, hải đảo mà hàng chục ngàn thuyền nhơn Việt Nam nghe tới tên phải xúc động thẩn thờ. Không biết kể từ bao giờ, mỗi khi nhắc tới nó, người tỵ nạn vừa âu yếm, vừa mỉa mai, gọi bằng một cái tên mới đặt, hải đảo Buồn Lâu Bi Đát. Cái tên sao mà bi quan và hơi cải lương. Thiệt tình mỗi khi nghe tới, đâm rầu thúi ruột!
°
Lều anh Năm áo thun ở tuốt về phía vách đá cuối bãi, khi tới nơi quẹo mặt một đổi rồi quẹo trái. Nó thuộc khu G của đảo. Muốn đi đến đó phải băng ngang qua khu D chợ trời. Trời vừa tang tảng sáng tôi đã dọn dẹp xong đống đồ đạc ngổn ngang, nhường cái bãi cát dơ lại cho mấy bà bạn hàng để quăng rác. Chiêu đi trước dẫn đường loanh quanh trong con hẽm nhỏ vừa đủ lọt một người đi. Tôi theo sát vì sợ lạc. Chung quanh lều cất san sát, cái cao cái thấp chen nhau, không còn một khoảng trống. Quang cảnh hổn độn rối nùi. Thỉnh thoảng tôi phải dừng lại, nhìn trái nhìn phải để định hướng. Đây rồi mẹ con Bi cùng mấy đứa nhỏ đang ngồi trên sàn. Tôi bồng lấy Bi, thằng bé ôm lấy tôi, mừng rỡ. Duyên hỏi:
– Hồi hôm hình như trời mưa, mấy anh làm sao? Có bị ướt nhiều không?
– Mưa cũng nhỏ, tụi anh chạy qua lều kế bên đụt tạm. Sao, mẹ con ngủ ngon không?
Duyên mặt mày tươi tỉnh:
– Mệt quá nên nằm ngủ một giấc tới sáng. Thôi, lo rửa mặt rửa mày rồi ăn điểm tâm.
Tôi đứng nhìn cái lều. Nó được dựng trên ba cây cột to bằng bắp chưn. Cây cột thứ tư là một gốc cây lớn cỡ vòng ôm, trên đọt còn đầy đủ cành lá xanh um. Nhờ vậy mà lều rất chắc chắn. Căn lều cao cẳng nầy cũng được lót sàn, cao chừng một thước rưỡi, có một cái thang ở ngay trước cửa, dùng để lên xuống. Như vậy cũng tiện, bao nhiêu bụi bậm rác rưởi đều lọt tuốt xuống đất. Mặt sàn cũng bằng cây tròn nhỏ dài cỡ hai thước, ghép sáy lại để nằm ngồi, sinh hoạt. Nhìn những mắt cây sần sùi, nổi u nổi cục, cây thì thẳng, cây thì cong, tôi lo lắng:
– Cái mặt giường lồi lõm như vầy, làm sao mà nằm?
Duyên trả lời:
– Khi nằm phải lựa thế từ từ ngả lưng xuống… chớ nằm lẹ thì bị cấn đau lắm.
Tôi sực nhớ ra ở Bidong, tất cả vật liệu xây cất đều phải tự kiếm trên núi. Đinh búa thì xuất tiền túi ra mua ở chợ trời. Ban quản trại chỉ phát cho đồ ăn với nước uống, làm gì có tới cây ván phẳng phiu để làm giường, làm chiếu. Mà nếu có, thì phải chở bao nhiêu tàu cho đủ? Có tất cả bao nhiêu cái lều ở đảo nầy? và bao nhiêu nữa đang được cất thêm? Diện tích mặt sàn cỡ bằng bộ ván lớn. Đằng trước, đằng sau, bên phải, bên trái, bị các lều lân cận ép kín mít, chỉ hở có trước cửa, một con đường ra vô chỉ khoảng một thước mà thôi. Cũng còn một chỗ trống nữa chớ. Ở vách bên phải còn dư một khoảng đất trống độ một thước ngang ba thước dài. Người anh rể Chiêu làm môt cái nhà tắm và môt cái bếp nấu ăn. Cái nhà tắm nhỏ như cái hộp cạc tông, còn cái bếp làm bằng đât sét, mỗi lần nấu nướng khói um mịt mù. Tất cả chỉ có bao nhiêu đó. Nếu muốn kể thêm thì có thể nói dưới sàn là rãnh nước chảy ngoằn ngoèo, dơ dáy. Cái rãnh chứa hết tất cả nước dơ của các lều khác chảy ngang qua đây rồi chảy về đâu nữa, làm sao tôi biết được!
Hành lý đã sắp xếp gọn ghẽ trên mặt sàn, tôi ăn tô mì tôm buổi sáng. Tô mì ngon hơn tối qua, có lẽ vì đói quá. Nắng đã len vàng trên đọt cây xanh. Nóc lều còn một khoảng trống, phải lợp thêm, nếu không mưa lớn sẽ ướt hết quần áo, đồ đạc. Bây giờ thì sinh hoạt của đảo đã bắt đầu rộn rịp. Trong các túp lều chật hẹp thien hạ tuôn ra đông đúc rộn ràng. Tôi lần theo lối cũ, trở ra khu chợ trời. Người ta ngồi bán dọc theo hai bên lối đi. Trước mặt mỗi người là một thùng giấy cạc tông hoặc môt tấm ny lông làm đệm, trên đó chất đủ loại mặt hàng cần dùng: kem đánh răng, khăn, mùng, bao ny lông đựng đường hoặc bột, đèn bấm, đường, gạo, bột, muối,… Có cả những thứ xa xỉ như bôm, nho, xá lỵ. Nhiều nhứt là những thùng nước ngọt Coca Cola với Seven Up. Có một gian hàng bán đủ loại đinh ốc, kềm búa, cưa, kéo. Tôi đứng nhìn mê mẩn, món nào cũng cần, cũng hấp dẫn dễ sợ. Gần bốn năm năm nay sống dưới chế độ mới, không thấy mấy món hàng bày bán ở chợ trời như những thời gian trước đây, bây giờ thấy lại mừng quá, như gặp cố nhơn. Những cái khăn tắm mịn màng, những hộp bánh, hộp kẹo ngon nổi tiếng, những đồng hồ Nhựt và Thụy Sĩ, những chai dầu thơm… tất cả như chào đón, mời mọc. Mắt nhìn nhưng chưn thì bước đi, trong túi không tiền thì làm sao để có mà mua?
Tôi nhìn về phía trái, thấy đó là phòng Y Tế của khu D. Những người bịnh vào xin thuốc đứng đầy ra tới cửa. Ai có sáng kiến lập phòng nầy ở đây coi bộ không khá, vì chỉ cách xa độ mười thước thôi, một dãy cầu vệ sinh công cộng quay mặt ngó xéo vào. Cầu đuược đào sâu dưới cát trên lót ván, xung quanh được che bằng tole dợn sóng, cao khoảng một mét rưởi, không có nóc. Chỉ có đàn bà con gái mới cần đến, còn đàn ông, con nít thì chịu khó mất công đến đây làm gì, mé biển hoặc hốc núi chỗ nào cũng được, lại sạch sẽ, thoải mái. Chừng tuần sau dãy nhà cầu nầy bị dẹp bỏ, cả đảo hoàn toàn không có một cái cầu nào. Tôi mới đến có một ngày, chưa biết đuợc gì nhiều, vã lại cũng không quen với một vị nào làm việc trong trạinên không nghĩ ra đượclà ở Bidong nên lập cầu vệ sinh hay không nên? Nếu nên lập thì tại sao có rồi phá bỏ, còn nếu không nên thì cả đảo là một bãi phân khổng lồ. Như hiện giờ trên đường đi, trên bãi cát, ở gốc câychỗ nào cũng co những mìn bẫy can quân ta gài lại trong đêm hôm khuya khoắc, sơ ý là dẫm phải. Ở vào trường hợp nầy không cần vào phòng Y Tế mà phải chạy lẹ ra mé biển… để rửua chưn! Cũng do vấn đề vệ sinh, tôi mới chợt hiểu công dụng của cây đèn bấm chớp tắt liên hổi trong đêm hôm của những người đi đường! Ai cũng phải có, không có là không được!
Tôi phải nín thở đi thật lẹ khi ngang qua đây. Trời ơi, cái chỗ tôi nằm ngủ hồi hôm cũng đâu có cách xa gì. Cái đống rác chình ình kế bên. Rồi cái bãi cát dùng làm chỗ tạm trú cũng ở kế bên đó luôn. Vậy mà đêm qua tôi dám cả gan nằm ở đó, ngủ một giấc ngon lành. (Vị nào trong ban tổ chức trại, có sáng kiến chọn khu tạm trú cho người mới tới ở chỗ nầy, thiệt là bất nhơn!)
Nắng đã bắt đầu nóng, mồ hôi rịn ra trên lưng. Những người thợ hớt tóc đã bắt đầu hành nghề bên cạnh những ông thợ bạc đang mài mài, dũa dũa các món nữ trang. Tôi thấy dưới gốc cây bàng lớn là phòng đánh điện tín dành riêng cho người tỵ nạn, vài ba người đang chờ đợi tới phiên mình. Quãng đường tự nhiên hẹp lại. Một căn nhà tuy đã cũ nhưng kiên cố, to lớn và khá đẹp được rào kín đáo. Nhà cất kiểu cao cẳng Mã Lai. Mặt sàn cao chừng một thước rưỡi, cầu thang đi lên nhà được xây bằng gạch tô xi măng.. Ở đảo nầy mà lại có môt căn nhà kiểu lạ không biết của ai, tôi đứng nhìn tò mò, không thấy người bên trong. Ủa, sao lại có người ở dưới sàn, đầu cạo trọc lóc. Anh ta nhìn tôi, vẻ mặy thê lương, nước da xạm đen. Tôi nhìn kỹ hơn. Hai tay anh được tự do nhưng cổ chưn bị xiềng vô gốc cột. Trời, sao kỳ cục vậy? Nét mặt nầy là người Việt hay người Tàu chớ không có vẻ gì là người Mã Lai. Từ trong nhà đi ra hai người cẩnh sát Mã cầm súng săn to nòng. À, thì ra cái nhà nầy là cơ quan cảnh sát Mã Lai trên đảo. Vậy mà tôi đứng đây hồi lâu không biết.
Tôi vội bước đi mà lòng thắc mắc, người bị nhốt dưới sàn kia, tội tình gì mà phải xiềng xích và đầu bị cạo trọc? Một nỗi buồn vô cớ len len trong lòng khiến tôi bước đi vội vã để tránh chỗ nầy. Tôi không muốn nhìn cảnh tượng thương tâm diễn ra trước mắt, cuộc đời vốn đã nhiều khổ sở, càng thấy nhiều, biết nhiều lại càng khổ hơn. Nhưng dầu muốn thấy hay không muốn thấy, cũng không do ý mình. Vừa qua khỏi nhà chờ đợi tạm mà tôi đã vào làm thủ tục hôm qua, mắt tôi chợt thấy một nhóm ba người đàn bà Tàu đang lên nhang đèn sì sụp khấn vái. Trước mặt họ, dưới một gốc cây dừa già cỗi, một cái miếu nhỏ đóng bằng cây ván vụn một cách thô sơ, sơn đỏ bầm trên đó một hàng chữ Tàu ngoằn ngoèo đậm nét. Đám đông rầm rộ xung quanh. Một lư hương cắm đầy nhang đỏ khói lên nghi ngút. Những lời cầu nguyện lẫn trong tiếng động vô tình. Tại sao nơi đây lại có một cái miếu nhỏ? Tôi hỏi một chủ lều bên đường, ông ta đang đứng thong dong -‘cách đây mấy tháng một ông già ngồi ở chỗ đó bị dừa rớt trúng bể đầu, chết liền tại chỗ. Ổng là người đầu tiên chết ở Bidong nầy, được đem chôn trên đồi tôn giáo đó!’
Nói xong ông ta ngó về phía giếng đông người, thản nhiên không một xúc động, trong tay còn cầm cọng nhang xỉa răng… Tôi nghiệm ra một điều ở Bidong nầy số lượng người đông như kiến thành ra đời sống của mỗi cá nhơn bị chìm ngập trong đám đông. Mỗi cá nhơn nhỏ nhoi quá, không có nghĩa gì hết. Ai bị gông xiềng thì cứ thản nhiên ở tù, ai bị dừa rớt bể đầu thì cứ thản nhiên chết, còn ai chưa bị gì hết thì cứ thản nhiên mà sống. Dòng đời cứ thản nhiên trôi. Chỗ nầy có người khóc, chỗ khác người ta cười. Đâu còn ai có thì giờ để quan tâm đến người khác chi cho nhọc sức. Tôi nhìn cái miếu đỏ mà lòng xốn xang. Ông già nầy là người tỉnh nào? Đã tốn bao nhiêu tâm huyết, tiền của vượt thoát được bao nguy hiểm bủa vây tứ phía, từ Viêt Nam qua được tới đây? Ông còn để lại vợ, con? Ông chết đi như vầy còn ai thương nhớ? Bất chợt tôi nhìn một lượt toàn cảnh. Cả trại nằm trọn trong rừng dừa. Còn hàng ngàn cây chưa đốn, những túp lều chen nhau núp dưới bóng mát của nó. Rồi sẽ có bao nhiêu trái dừa sẽ rớt, sẽ có bao nhiêu người nữa bị lên đồi tôn giáo nằm cạnh ông già bất hạnh kia? Chỉ có trời biết thôi, mà trời thì ở cao xa thăm thẳm không thèm nói trước!
Tôi đi ra tới cầu tàu mà trong đầu cứ còn lởn vởn hình ảnh ông già mệt mỏi xơ xác sau bao ngày vượt biển đến đây, ghe phải vất vả gian nan mới cặp được vô cái cầu tàu nầy. Ông đuợc lên bờ và ghé vào ngồi dựa gốc dừa để nghỉ mệt…Phải chi ông bị chuyện rắc rối tới trễ một vài phút, phải chi trái dừa rớt sớm hơn vài phút, phải chi nó rớt trật qua một bên và hàng ngàn cái phải chi khác… nối tiếp nhau cho tới cái phải chi cuối cùng thì tôi vỡ lẽ. Đó là, phải chi đừng có Viêt Cộng vô xâm chiếm miền Nam thì ông già đâu có vượt biên làm gì, mà ông không vượt biên thì làm sao dừa Bidong rớt trúng đầu ông được. Và từ đó tôi suy ra hàng trăm, hàng ngàn nỗi khổ đau cực nhục của người thuyền nhơn, tỵ nạn Việt Nam phải gánh chịu là do cái chủ nghĩa Cộng Sản thiếu trái tim người gây ra. Mà suy nghĩ cho cùng, đâu phải chỉ có mấy trăm ngàn thuyền nhơn chịu khổ đau, cả xứ Việt Nam sáu chục triệu người cũng đồng chung một thảm cảnh giống nhau. Phải chi…phải chi đừng có chủ nghĩa Cộng sản thì dân tộc sẽ hạnh phúc biết bao nhiêu!
Tôi lần đến cầu tàu. Hằng trăm người vẩn vơ đứng ở đầu cầu, đa số đều ngóng nhìn ra khơi. Không biết họ tìm gì ngoài đó. Những câu chuyện về chuyến đi, những may mắn cùng những hãi hùng đựợc nhắc đi nhắc lại. Ai ai đến đây cũng đều bị một dấu ấn khắc sâu trong lòng cho đến chết cũng không quên. Chuyến đi của cả một đời. Chỗ nầy thuộc khu A, người ta ra đây để hóng mát, để gặp gỡ hàn huyên. Nước biển đầy rác và phân người. Vậy mà chiều hôm qua, tôi đã thấy hàng ngàn người lặn hụp dưới đó. Mình mẫy bụi bặm dơ dáy mới đi tắm, mà tắm ở đây xong thì dơ hơn! Cũng ngộ quá sức!
Cái cầu cây dài cả trăm thước nầy được gọi là cầu supply, tôi nghe mọi người đều gọi như vậy. Cũng đúng thiệt! Từ sớm mơi cho tới nửa đêm, người ta đã chuyên chở vô đảo
không biết bao nhiêu tấn thực phẩm và hàng hóa. Các thanh niên tự nguyện thuộc khối tiếp tế có đến mấy trăm người, thay phiên nhau công tác liên tục. Họ di chuyển trên cầu, ở xa trông như đàn kiến tha mồi vào tổ. Kho chứa là một dãy nhà tôle nằm dài theo bãi cát bên phải đầu cầu. Xa một chút, xác một chiếc tàu sắt nằm nghiêng trên bãi chơ vơ như một bộ xương rỉ sét… (danh từ cầu supply chỉ phổ biến vào năm 1979, đến 1980 trở về sau được điều chỉnh để gọi cho đúng là cầu jetty).
Trời đã nóng gắt, oi bức dễ sợ. Tôi cởi áo cầm tay. Mọi người đều ở trần, tôi cũng thử ở trần đi giửa đám đông coi thử ra sao. Cũng thoải mái, đâu có gì ngại ngùng. Con đường chánh từ cầu supply đi thẳng vô trung tâm hành chánh của trại, bề ngang độ chừng hai thước. Nó là đại lộ Lê Lợi của Bidong, người đi như nêm trên mặt đất nện vàng ẻo. Một vũng nước đen ngòm nằm bên đường đầy rác rưởi rong rêu chảy ngang qua lộ bằng một đương mương nhỏ. Người ta phải bắt qua vài tấm ván mỏng gập ghình. Rồi sau đó là người và người, tôi bị chìm mất trong đám đông di chuyển hổn độn. Một rừng người xô đẩy chen lấn nhau, phức tạp, rối nùi. Có một giếng nước ngọt ở đầu đường, đông ghẹt người đến lấy nước. Ở đây không có việc sắp hàng chờ đợi. Mạnh ai nấy quăng thùng xuống giếng rồi sau đó kéo lên, được bao nhiêu hay bấy nhiêu. Tiếng thùng thiếc va chạm nhau gây nên một âm thanh loảng xoảng vang dội. Nhìn cảnh lấy nước giành giựt nhau từng lon, tôi ngao ngán. Trơi, phải tả xung hữu đột để kéo lên một lon nước nhỏ, thiệt là vất vả quá. Rồi phải bao lâu mới được một thùng?
Tôi đi hướng về trung tâm của khu A. Một cái ổ ong lớn hoạt động nhộn nhịp rộn ràng ở các dãy nhà ngang, dọc. Khu hành chánh của trại ở đầu đường trên một bãi đất nện được đắp cao. Hai dãy nhà cây lợp tôle dợn sóng, vài cái lều cây và lều vải nhà binh được dựng thêm kế bên. Tất cả đều được một hàng rào kẻm gai vây quanh, những chỗ thiếu kẽm, người ta lấy cây ván thế vào. Những người có thiện chí và khả năng ự nguyện góp công góp sức mình đang lăng xăng làm việc. Có những người đàn ông, đàn bà và đa số là thanh niên trẻ tuổi. Họ đến từ một phương trời xa xăm, không quen biết nhau, vì cùng một cảnh ngộ, đem sức lực và tâm trí đóng góp vào việc chung của trại. Quyền lợi thì hoàn toàn không có gì nhưng trách nhiệm và bổn phận thì khá nhièu. Tôi gặp ngay ông trưởng trại, một người bạn cũ, có một thời anh làm hiệu trưởng trường Trung Học Thoại Ngọc Hầu ở Long Xuyên. Mười năm rồi mới gặp lại nhau, anh cũng không thay đổi chút nào, người nhỏ con rắn chắc, đôi mắt xanh như mắt mèo vì có dòng máu lai, dân gốc ban Pháp Văn, Đại Học Sư Phạm Đà Lạt. Anh gặp tôi mừng rỡ hỏi thăm tin tức quê nhà và các bạn cùng trong nghề dạy học ở Bình Dương. Tôi cũng mừng lắm vì gặp lại bạn cũ ở mơi tha hương, nói:
– Kiệt nè, đừng có lo lần lần rồi tụi mình sẽ thấy các bạn đó ghé vô Bidong nầy hết cho coi. Ở bên nhà, ai nấy cũng rán tìm đường để đi..
Rồi tôi hỏi:
– Bạn có cách nào giúp tôi tìm một người thân trong gia đình đã vượt biên gần hai tháng nay mà không biết tin tức. Tôi cũng có nhờ nhắn tin tối hôm qua…
Kiệt sốt sắng nói:
– Sợ không có ghé vô đảo nầy. Nếu có thì chắc chắn sẽ tìm ra.
Kiệt dẫn tôi vào văn phòng hành chánh, gặp anh trưởng phòng tên Phong, lúc trước cũng là giáo sư dạy ở Pẻtrus Ký. Phong đưa cho tôi sáu quyển sổ lớn dầy cộm, ghi danh sách người tỵ nạn theo thứ tự thời gian đến đảo. Xung quanh những ban khác làm việc rộn ràng, họ ngồi trên các băng bằng cây, đánh máy rào rào. Mặt bàn cũng bằng cây vá víu sơ sài, những tập vở học trò, những cây viết cùng giấy vụn bừa bãi. Bên vách là một cái tủ cây không có cửa dùng để sắp xếp hồ sơ, có một màn vải trắng úa vàng che phủ bên ngoài… Tôi kiếm ngày tháng rồi lật từng trang. Lật hoài, lật hoài… mãi đến giữa trưa cũng không thấy. Tôi cám ơn Kiệt và Phong, từ giả hội trường để trở về, trong bụng thắc mắc, lo âu…
Dựa lưng vào gốc dừa nghỉ mệt, tôi nhìn qua bên trái, một dãy nhà tôle dợn sóng, dùng làm trung tâm y tế của trại. Có một dấu Hồng Thập Tự đỏ sơn ở trước cửa ra vô. Vào giờ nầy tuy người đã thưa bớt nhưng vẫn còn đông lắm. Bất chợt, tôi nhìn thấy một người quen bên kia đường, đang đi lại. Rõ ràng là nhạc sĩ Lê Thương, thầy dạy Sử Địa của tôi ngày trước, không ngờ gặp lại ở cái đảo xa xôi nầy. Thầy Lê Thương cũng y như ngày xưa mập mập, mặt tròn, mắt sáng, miệng cười tươi, phía trong có cái răng vàng duyên dáng. Tôi mừng quá, chạy qua chào hỏi:
– Chào thầy, thầy qua đây từ bao giờ. Thầy còn nhớ em không?
Tôi mừng hết sức, không kìm được lòng nôn nao, hỏi ào ào không kịp thở. Người thầy dạy học mà tôi hằng kính mến và ngưỡng mộ. Những ngày tôi mới lớn, mới vào bậc trung học, thầy Lê Thương với mái tóc xanh mướt óng ả, dáng dấp đẹp đẽ đã gieo vào tâm hồn ngây thơ của tôi lúc đó, niềm say mê, kính phục. Bây giờ thầy cũng đã vượt biên ở chung một đảo nầy, không vui mừng sao được. Tôi đã đứng trước mặt mà thầy vẫn còn ngơ ngác, đứng im. Vậy là thầy đã quên cậu học trò cũ ngày xưa…
Tôi nhắc lại:
– Ngày xưa, em có học với thầy những năm 1953, 1954 ở trường Nguyễn Trãi, Thủ Dầu Một, thầy chắc còn nhớ, những năm première année, deuxième année…
Thầy Lê Thương của tôi, sau một hồi ngỡ ngàng, lắp bắp:
– Ngộ… ngộ, không piết gì hết á, nị nói cái gì vậy?
Trời, sao kỳ cục vậy, tôi nhìn lộn người rồi sao, quê ơi là quê! Thầy Lê Thương nầy không phải thiệt. Ông ta người Tàu, nói tiếng Việt không rành. Lần nầy thì tôi lắp bắp, nói không ra tiếng:
– Ủa… ủa, xin lỗi, xin lỗi… tôi lộn rồi…
Ông Tàu Chợ Lớn bỏ đi một nước. Tôi đứng há hốc như trời trồng, nhìn theo cái lưng ông ta cho tới khi không thấy nữa. Sao mà có người giống nhau quá sức, không phân biệt được. Làm sao mà tôi nhận không đúng thầy Lê Thương? Tự nhiên tôi nghĩ ra một điều, lầm bầm cằn nhằn, -‘thiệt tình, già cái đầu rồi mà còn ba chớp ba sáng, sao không chịu suy nghĩ, hấp tấp nhận lầm, đến phải xin lỗi người ta’. Ngu ơi là ngu! Thầy Lê Thương tới bây giờ ít ra cũng đã sáu mươi đến sáu mươi lăm tuổi. Đã trên hai mươi lăm năm xa cách không gặp lại, thầy phải già ra chớ! Một người sáu mươi mấy với một người bốn mươi tuổi, khác nhau một trời một vực, sao mà lại lầm như vậy cho được. Thì ra cái đầu tôi như cái máy chụp hình. Hình nào nó đã ghi rõ một thời, thì cứ y như vậy mà nhớ hoài, không thay đổi. Không bao giờ thay đổi! Tôi vừa tức cười, vừa quê quê, ngó quanh một lượt coi có ai để ý không, xong rồi đi một hơi về lều, chắc mẹ con Duyên đang chờ cơm.
Chương 17
HẢI ĐẢO BUỒN LÂU BI ĐÁT (3)
Những thân dừa trơ ra dưới nắng cháy. Những mái lều xanh hình như không đủ sức che mát cho những con người khốn khổ chui rúc phía dưới. Nắng cháy trên đầu, nắng phỏng dưới chưn. Tôi phải chen lấn trong đám đông hỗn độn, ồn ào đủ thứ âm thanh, đủ loại màu sắc để đi cho lọt, về được tới lều thì trời đã trưa. Bidong bị phơi khô, đang bốc hơi ngùn ngụt và sắp tan thành nước… Ở đảo chiều xuống rất mau, khoảng bảy giờ thì trời đã tối hù. Một phần thì mặt trời xuống thấp, một phần lều bị che kín mít bốn bên, ánh sáng le lói buổi chiều tà đâu còn ngõ nào mà chun vô trong cho được. Cơm nước cũng vừa xong, nếu không có việc gì phải ra ngoài, thì chỉ có nước đi ngủ. Không có đèn sáp mà cũng chẳng có đèn dầu, tất cả đều bị bỏ lại ở Kapas. Tôi ngồi trong một góc sàn, thoải mái. Hơi mát buổi tối làm cho mọi người tươi tỉnh trở lại. Vợ chồng, anh em, quây quần kể chuyện cho nhau nghe những việc xảy ra trong ngày. Cái sàn tuy rất chắc nhưng nhỏ và chật quá, chỉ xê qua xích lại một hai tấc thôi.
Nói ba điều bốn chuyện thì có tiếng chào rào, chộn rộn ngoài cửa. Tiếng một thanh niên người Tàu lai líu lo. À, thì ra thằng con chị Mỹ Á dắt cô Lý Tố Hà đến thăm. Trong bóng tối mờ mờ, cô Hà leo lên gác, mắt nhìn quanh, gặp Duyên và tôi, mừng rỡ hỏi dồn:
– Ủa, có hai anh chị đi chuyến nầy nữa sao? Vậy mà tôi cứ tưởng chỉ có mấy em… Nghe nói đi cả hai ba tháng trước rồi mà, sao bây giờ mới tới đây?
– Ừ, thì cũng phải rán, chớ thiên hạ xúm nhau đi hết rồi mình còn ở lại với ai. Sau khi cô đi vài tuần thì tụi tôi xuống Bạc Liêu. Cứ tưởng là được đi liền, nhè đâu bị kẹt lại đó hai tháng. Đến khi đi được, lại không vào thẳng Bidong nầy mà lại ghé một đảo kế bên… Ở đó lâu tới một tháng. Kể mất tất cả là ba tháng bỏ phí vô ích!
Cô Hà nhờ cơm gạo Bidong nên có vẻ mập, tròn hơn trước:
– Tôi đến đây kể trên bốn tháng rồi, xin đi Mỹ không được, bây giờ chuyển qua đi Úc… Tôi có một mình, nên Úc dễ nhận hơn, cái xứ gì chỉ nhận đàn bà, con gái độc thân.
Rồi cô hỏi tiếp:
– Lúc tôi tới Bidong có đánh điện tín về, không biết ở nhà có nhận được không? Tôi trông hoài mà không thấy thơ từ gì hết. Hỏi thăm không ai biết…
Tôi trả lời mau mắn:
– Có, ở nhà hai bác có nhận được điện tín của cô. Bác Hai mừng lắm, có đem lên nhà cho tôi coi.
Cô Hà xúc động mừng rỡ:
– Trời, vậy mà tôi lo nó không tới. Tội nghiệp ông già, bà già…
– Bửa đó ngày Tết Dương Lịch mà, tôi còn nhớ rõ bác gái khi nhận, đọc chữ ‘bình an’ thành ra ‘bị nạn’. Bả mừng quá nên mắt mờ luôn, đọc hết nổi.
Cô hỏi nữa như không tin chuyện ba má cô nhận được điện tín là có thật:
– Rồi anh có gặp ba tôi không? Anh thấy lúc đó ổng ra sao?
– Ờ, ờ bác trai cũng vui lắm. Mỗi lần ổng nói chuyện là cứ nhắc ‘con Hà nhỏ’ hoài. Chà, con gái cưng mà, cô là người vượt biên đầu tiên trong đám bạn bè ở tỉnh, ai cũng nễ hết…
Má Bi xen vô:
– Cô Hà biết không khi cô đi rồi, có một người buồn lắm! Cô phải hối lộ cái gì đi, thì tôi mới nói ra người đó là ai?
– Trời, em mà có ai thương yêu? Nếu có người nào để ý thì em đâu có đi làm chi. Mà người đó là ai vậy chị?
– Tôi không nói đâu. Bây giờ có nói ra thì cũng góc biển chơn trời hết rồi… Hổng lẽ cô vượt biên trở về Bình Dương!
Trong bóng đêm, cô cựu hiệu trưởng ngồi im thẩn thờ. Những người bạn cũ cùng một góc trời quê hương hiện lên rõ nét. Những con đường làng đầy bóng tre xanh, những dãy lò chén khói lên ngùn ngụt, những hầm đất sét vàng sệt, những buổi tiệc ăn uống vui đùa… còn gì nữa, mái trường Cấp Ba Thị Xã và những đồng nghiệp quen thân.
Bỗng nhiên, cô hỏi:
– Anh Hưng, anh Sanh, bây giờ ra sao? Anh Trầm nữa?
– Chút nữa tôi quên, nói cho cô mừng, anh Sanh bây giờ thành bác sĩ châm cứu rồi. Trước khi đi có gặp, ảnh đưa khoe cái giấy của Ủy Ban Nhân Dân Xã cấp cho phép được làm bác sĩ châm cứu… Bây giờ ai cũng kêu ảnh là bác sĩ hết. Ngon lành chưa?
Cô Hà cười ngất:
– Còn anh Trầm?
– Anh Trầm cũng giàu lắm. Ảnh chạy áp phe rất giỏi. Chuyên môn mua thịt heo bò lậu trong các làng xa, nhét trong cốp xe Vespa chạy về chợ Bến Thành để bán…
Bẵng đi một hồi, cô hỏi tiếp, giọng ngập ngừng:
– Rồi anh Thạnh…
Tôi nghe trong hơi thở cô có cái gì xa vắng, mênh mông. Tại sao cô lại để anh bạn nầy sau hai anh kia?
– Anh Thạnh cũng còn đi dạy như thường, chưa đổi nghề mới. Ảnh thường nhắc tới cô hoài, trước khi đi tôi có đến từ biệt, anh chàng coi tiều tụy xác xơ lắm…
Cô ngồi im không nói. Tôi nghe tiếng gió đập phần phật trên nóc lều. Chiều nay Tiến và Chiêu vừa mới lợp thêm một lớp bạt ny lông mới cho đỡ nóng. Chị Liêu Thạnh mua dùm giá ba mươi đồng. Có lẽ một góc nào đó cột chưa được chắc nên bị gió thổi tung. Ngày mai có thì giờ rảnh leo lên cột lại, cũng dễ lắm. Nhưng trong đời có nhiều chuyện chỉ cần một sơ sót nhỏ hay một vô tình, thời gian đưa đẩy, tất cả đều thay đổi hết, làm sao mà vá víu lại cho được. Như chuyện tình yêu…
Duyên ngồi sát lại cô Hà, nói:
– Cô Hà biết không, anh Thạnh thường tâm sự với hai đứa tôi, không biết tại sao mỗi lần gặp cô là mọi dự định gì cũng không dám nói…
– Như vậy là ảnh đâu có thương yêu gì em?
– Đâu phải như vậy, ảnh cũng ăn nói ồn ào lắm chớ, cô thấy ảnh dạy học thì biết, có lẽ cô đẹp và giàu hơn nên ảnh nghĩ là không sánh bì được. Đàn ông ưa bị mặc cảm thua kém…
Tôi xen vô nói phân hai:
– Tôi thì thấy như vầy, nếu hai bên mà thương nhau thiệt tình thì dầu có muôn ngàn khó khăn cách trở cũng thành chồng vợ được.. Còn nếu không thương hoặc tình thương chưa đủ thì dầu có lấy xiềng cột cho dính nhau cuối cùng cũng tan vỡ… Biết đâu một ngày đẹp trời nào đó, ổng cũng lót tót qua tới Bidong nầy cho coi!
Câu chuyện kéo dài cho tới khuya. Hai bên hàn huyên, đối đáp nhau trong bóng đêm chập choạng. Chỉ nghe có âm thanh, tiếng nói, tiếng cười, tiếng thở và tiếng động xung quanh. Cô Hà từ giả ra về, có cậu con chị Mỹ Á hộ tống. Ánh đèn bấm lấp lóa, rọi dài theo con đường hẽm nhỏ. Bidong về khuya, người và vật ngủ im lìm sau một ngày mệt mỏi chen lấn nhau. Tôi nằm trên cái nệm cây sần sùi, lăn qua trở lại, nhớ miên man những bạn cũ còn ở quê nhà, mới ngày nào còn xum họp đông đảo vui vầy, bây giờ xa cách nhau một đại dương… Cũng may còn gặp được cô Hà nơi đất khách. Ước gì gặp lại nhau được hết nơi đây, anh Hưng, anh Thạnh, anh Sanh, anh Trầm… Nhưng niềm uớc ao nầy chắc khó thành, vì bạn nào cũng nghèo quá, lo ăn còn chưa đủ, nói chi tới những dự tính xa vời. Người nghèo dầu ở chế độ nào cũng là kẻ thiệt thòi hơn hết. Cuộc chiến tranh tương tàn kéo dài ba mươi năm, cuối cùng thì người lao động quần quật ở rừng sâu, người sống lây lất ở thành phố và một số nhỏ, rất nhỏ được coi là may mắn thì lang thang nơi đất lạ quê người…! Có tiếng sóng chập chùng ở cuối bãi, chắc nước thủy triều đã dâng lên cao tới sát vách đá. Cái lều cây chơ vơ lơ lửng ở giữa triền, tôi có cảm giác bập bềnh như đang nằm trên ghe, bốn phía đều là sóng lớn dào dạt…
°
Nắng vàng tươi trên các lối, tôi và Duyên len trong đám đông đi về phía hội trường. Mới hơn tám giờ sáng sao mà người đông quá sức phải chen mà đi. Tâm Bi được mẹ bồng đưa cánh tay mũm mĩm, chỉ chỏ hết chỗ nầy đến chỗ kia, miệng bi bô coi điệu mừng rỡ. Thằng nhỏ ngày nào cũng được mấy chú, mấy cô bồng bế đi chơi nên khoái lắm. Sáng nay Bi cũng được đi chơi, lại được bận đồ đẹp đẽ hơn ngày thường nghĩa là có bận đủ quần và áo. Mọi khi Bi chỉ có quần mà không có áo hoặc ngược lại, có áo mà không có quần. Quần cứ bị uớt hoài, giặt phơi không kịp khô! Bộ đồ sọc xanh có quai tréo được Duyên lấy trong xách tay ra, còn nguyên nếp xếp hăng hăng mùi vải mới, bận vô coi Bi đẹp trai hơn ngày thường. Duyên cũng mặc một cái áo mới màu trắng đơn giản. Tôi đi trước dẫn đường, mồ hôi rịn ra trên lưng. Cả tuần rồi ở trần trùi trụi nên quen da, bữa nay mặc lại áo tuy chọn cái ngắn tay, vẫn cảm thấy vướng víu nực nội.
Từng cơn gió ngoài khơi thổi đong đưa các tàu dừa xanh mướt loang loáng nắng vàng nhưng không đủ mát cho người ngoài đường. Những mái lều xanh màu ngọc thạch, căng lưng hứng hết hơi nóng nhiệt đới từ trên cao đổ ập xuống. Trên các đường nhỏ ngột ngạt, hàng ngàn người di chuyển tới lui rộn ràng như đàn kiến kéo nhau đi tìm mồi. Một đám kiến đông nghẹt đang đứng sắp hàng trước hội trường, tất cả tôi đều quen biết, đàn kiến của ghe BL 1648 hôm nay tụ tập lại đây để lập hồ sơ ghi danh chánh thức là dân tỵ nạn Liên Hiệp Quốc. Anh Tư mặc áo trắng bong tay dài, có gài nút vàng hực hỡ, giày da đen đánh bóng soi gương được. Chị Tư và Mỹ Thanh vòng vàng, hột xoàn lấp lánh.. như đi dạ tiệc. Tôi chào từng người và hỏi:
– Anh Tư tới lâu chưa, sao chưa thấy anh chị Thuần với vợ chồng Quách Linh Hoạt?
Anh Tư Trần Hưng Đạo nhờ ăn mặc kỹ lưỡng nên coi trẻ hơn lúc trước, nói cười tươi rói:
– Mấy ông bà đó mua nhà tuốt trên khu E, từ trên sườn núi mà đi tới đây chắc cũng phải cả giờ…
Tôi thoáng thấy cái mề đay vàng đeo lủng lẳng bên trong áo. Ông bà nầy hay thiệt, hồi ở đảo Dừa, tụi Mã Lai xét rất kỹ đồ đạc, hành lý, vậy mà vẫn còn dấu được y nguyên, không mất mát món nào. Dân buôn bán thường thì khá giả hơn giới công chức quân nhơn. Anh Thuần và Quách Linh Hoạt ít tiền hơn, đành phải leo tuốt lên núi che lều. Muốn đi tới khu E phải từ hội trường nầy, vượt qua không biết bao nhiêu lều trại, đồi dốc dựng ngược mới tới được. Mỗi lần lên trên đó thăm bạn là tay chưn tôi rã rời, thở hết muốn nổi. Miệt đó khoảng lưng chừng núi, phía sau là rừng cây, bất tiện đủ mọi điều, duy có việc kiếm củi là tiện nhứt, không phải đi xa.
Chị Tư đứng kế bên phân trần:
– Hai vợ chồng tôi con cái đông quá, đứa nào đứa nấy còn nhỏ xíu thành ra phải rán sức mua cái lều ở khu A nầy, chớ thiệt ra cũng không dư dả gì nhiều…
Anh Tư chen vô:
– Phải chi hồi bữa mới tới, ghe mình được mở hồ sơ Cao Ủy ngay, thì có thể vô gặp phái đoàn Canada tới kỳ rồi Thiệt xui hết sức, nó nhận trên năm trăm người mà không cần điều kiện gì hết…
Tôi góp chuyện:
– Ừ, ừ, ở đây ai cũng muốn đi Mỹ, chớ không thèm Canada, một phần Canada yếu quá, hai là lạnh quá. Người ta chê… thì mình xin chắc được!
Tiến và Chiêu sau một hồi đi vòng vo trở về. Tiến hỏi:
– Bữa nay mình khai lý lịch cho Cao Ủy Tỵ Nạn mà trong tay không có một giấy tờ nào lận lưng, rồi làm sao chứng minh, ai tin?
Anh Tư khoát tay:
– Đừng lo, bồ ơi, chuyện gì tôi không biết, chớ chuyện đó thì rành sáu câu. Nhà tôi ở sát vách hội trường, nghe thiên hạ kể lại đầy lỗ tai. Ai muốn khai gì cứ khai, tha hồ. Trung sĩ lên thành Trung úy, y tá lên bác sĩ, thợ máy khai kỹ sư, học lớp mười khai tốt nghiệp Đại học, có vợ năm con cứ khai còn độc thân… rồi nhiều khi đổi luôn cả tên tuổi! Cứ nói giấy tờ rớt hết xuống biển là xong, dễ ợt! Tụi phái đoàn phỏng vấn cũng không thèm kiểm chứng, chỉ trừ có Mỹ là hơi rắc rối với cựu quân nhân, công chức vì hồ sơ lý lịch còn lưu trữ đầy đủ, còn các nước khác thì đâu cần biết tới làm chi cho mất công.
Tiến suy nghĩ một hồi rồi lẩm bẩm:
– Đâu có được, nếu mà khai bậy bạ lung tung như vậy thì giấy tờ bằng cấp kể như bỏ hết!
Anh Tư cười ha hả:
– Tại bồ có bằng cấp cao thì sợ là phải, nếu khai trật là kể như phải học lại từ đầu, còn như tụi tôi trụi lũi, dầu có khai gì đi nữa thì cũng đâu có làm gì được…
Chiêu nãy giờ đứng im nghe đối đáp, bây giờ mới thủng thẳng nói:
– Cũng được chớ anh Tư, trường hợp của anh thì không cần khai học tới kỹ sư, bác sĩ gì, chỉ cần bớt chút đỉnh…
Anh Tư nôn nóng:
– Bớt cái gì chút đỉnh?
Chiêu ngó chị Tư rồi cười:
– Thì anh bớt lại chừng mười tuổi, còn tình trạng gia đình thì đề là độc thân…
Chị Tư Trần Hưng Đạo háy chồng một cái dài hàng cây số :
– Xí, chú Chiêu tưởng anh Tư ngon lắm hả. Phải chi có cô nào chịu, rước phức ổng đi cho tui nhờ, già cúp bình thiếc rồi, dầu có khai thấp khai cao gì, cũng đâu có gạt ai được…
Tôi muốn chọc chị Tư cho vui, bèn nói:
– Cũng chưa biết đâu à nghen, cái gì cũng phải làm thử mới biết thiệt hư. Tôi nhớ hồi còn ở đảo Dừa có cô gì đẹp đẹp đó, cứ theo nói chuyện với anh Tư hoài…, làm tôi ghen hết sức!
Chị Tư nắm lấy tay Duyên:
– Nè, cô Duyên, nghe mấy ổng nói chuyện đã thèm chưa. Ông nào cũng như ông nấy, quá trời!
Duyên cười:
– Hơi đâu mà chị nghe, người nào mà ưa nói được người nầy yêu, được người kia thương, là người đó không có ai yêu thương hết. Họ phải nói như vậy để che dấu khuyết điểm… Còn ông nào lầm lầm, lỳ lỳ, không nói gì hết thì mình phải sợ, phải đề phòng…
Hàng người di chuyển dần dần tới trước, nhờ nói chuyện tầm phào mà tôi tiến sát tới nơi khai báo hồi nào không hay. Đó là ba cái bàn bằng gỗ tạp được kê sát vô vách trái của phòng hội. Trên bàn có để các mẫu giấy để người tỵ nạn tự ý điền vào. Tôi đến trước thuận tay lấy hai tấm, một cho tôi và một cho Duyên, xong rồi cả hai ngồi xuống điền các chi tiết được hỏi. Tôi liếc nhanh qua những hàng chữ và ngạc nhiên nói với vợ:
– Em coi nè, tờ khai lý lịch của Cao Ủy Tỵ Nạn Liên Hiệp Quốc sao mà đơn giản quá vậy?.
Duyên cũng đã đọc qua nói:
– Ờ, ít quá, chỉ có hỏi tên tuổi, ngày và nơi sanh, nghề nghiệp, ngày đến đảo… Rồi kêu chọn theo thứ tự ba nước muốn đi định cư… Thôi vậy cũng gọn, khỏi phải dài dòng lôi thôi như Việt Cộng.
Nghe nàng nói tôi nhớ lại những ngày đầu tháng 5 năm 1975 tôi và Duyên phải đến trình diện ở Tòa Án Bình Dương để làm tờ khai lý lịch với Ủy Ban Quân Quản của Tỉnh. Ở đó tôi gặp lại hầu hết các giáo sư bạn bè, những công chức của các ty sở. Người nào người nấy câm nín, lặng thinh, ngồi đứng rón rén sợ sệt, đầy vẻ nhẫn nhục, chịu đựng của người bại trận. Tôi ngồi trên cái băng cây, cầm xấp giấy được phát, vừa đọc vừa rùng mình. Dễ sợ thiệt. Những câu hỏi dầy đặc bao quanh cuộc đời từ ông cố, ông nội, đời cha rồi tới đời con, đời cháu. Bên nội, bên ngoại,.. hàng xóm, gần xa.. Rồi tới chuyện tốt chuyện xấu, thương ai ghét ai, có cần tố cáo gì với nhân dân, đảng và nhà nước sẵn sàng lắng nghe và giúp đỡ. Mẫu khai lý lịch đơn giản đó, sơ sơ gần mười trang, tuy là những tờ giấy mỏng tanh nhưng nó có sức nặng như đá tảng. Tôi đã viết miên man như người lên đồng, đầu óc nóng bừng bừng. Cũng may tôi chỉ là một thầy giáo ở tỉnh lẻ tầm thường… Tôi không thể tưởng tượng một vị chính khách, một bộ trưởng hay một tướng lãnh mà cuộc đời các vị đó là một chuỗi dài biến cố thì bảng lý lịch phải tới bao nhiêu trang? Một trăm, hai trăm, một ngàn, hai ngàn… hay nhiều hơn nữa? Chưa bao giờ và ở đâu, đời tư con người được khai thác tận tình như dưới chế độ Cộng sản. Nghe bao nhiêu lời truyền tụng, đọc bao nhiêu sách vở, cũng không bằng thực sự sống trong lòng chế độ một ngày. Chỉ một ngày thôi cũng đủ biết đá biết vàng, nói chi đến năm mười năm hay dài lâu hơn nữa…
Duyên day qua hỏi tôi:
– Mình chọn Canada ưu tiên một, Úc ưu tiên hai phải không anh?
– Em suy nghĩ kỹ lại coi, nếu muốn chọn Hoa Kỳ, vợ chồng mình cũng có đủ điều kiện .. nhưng phải chờ lâu lắm đó. Có người chờ năm, bảy tháng, một năm mà cũng chưa nhúc nhích! Úc thì cũng đi lẹ nhưng gần khu vực Đông Nam Á quá, biết đâu một ngày nào đó tụi nó len lỏi tới, mình phải chèo ghe đi trốn một lần nữa… Theo anh nên chọn Canada cho gọn, dễ đi, chớ tình trạng ở đảo như vầy, kéo dài tháng nầy qua tháng kia, rủi ro bịnh họan thì làm sao!
Út Trung xách tờ khai lại gần tôi nói:
– Em chọn Huê Kỳ ưu tiên một, Canada kế. Bên Huê Kỳ, khoa học kỹ thuật cao, mình có thể theo học được, nó lại giàu mạnh nhứt thế giới. Anh chị đổi lại đi, qua Mỹ với em cho vui.
Sơn chọn Mỹ và Tây Đức. Còn Dân gì đó thì cầm giấy, đứng ngó hết người nầy tới người kia, cuối cùng nó chạy lại tôi, miệng nói tía lia:
– Anh chị tính lựa đi định cư xứ nào? Sao người ta tốt quá, cho mình đi mấy xứ văn minh như bên Tây bên Mỹ gi đó, em thấy chỗ nào cũng được hết. Để em hỏi thử coi, em chọn ba nước mà nuớc nào cũng ưu tiên một hết, có được gì đó không?
Tôi trả lời dùm cho nó:
– Đâu có được Dân, nếu em chọn ba nước cùng ưu tiên một, làm sao người ta cứu xét. Thôi, hay là em chọn Canada để đi với anh chị đi.
Thằng nhỏ không đắn đo gì hết, chìa tờ giấy ra, miệng cười cười:
– Thôi, sẵn viết gì đó, nhờ anh ghi vô dùm. Anh muốn ghi gì đó thì cứ ghi, em đâu có biết nước nào ở đâu, miễn làm sao đi cho lẹ lẹ gì đó là được.
Tôi vừa ghi cho nó, vừa nói:
– Canada thì lạnh lắm đó nghen, chỗ nào cũng đóng nước đá hết. Mai mốt bị lạnh teo ruột teo gan thì đừng có bắt đền nghe không!
Dân gì đó cười hì hì:
– Anh nói vậy chớ, đâu có chỗ nào lạnh dữ quá gì đó. Chắc bên đó cũng y như trên Đà Lạt, anh chị chịu được thì em cũng chịu được gì đó, em hổng lo…
Tôi cầm tờ giấy đã khai đến nộp cho một nhân viên ngối sau bàn giấy. Anh kiểm sóat lại coi có điền đầy đủ các chi tiết và chữ ký đúng thủ tục hay không. Công việc giải quyết nhanh chóng. Chỉ trong vòng hai tiếng đồng hồ, gần trên năm trăm người của đảo Kapas đưa qua, đã làm thủ tục ghi tên tỵ nạn với Cao Ủy Liên Hiệp Quốc ở đảo Bidong một cách thật gọn gàng. Quang cảnh đã thưa bớt. Khai xong mọi người tản mát ra về.
Tư Trần Hưng Đạo rủ tôi ghé nhà anh chơi. Thuận đường về tôi rủ Duyên ghé vào cho biết thế nào là một căn lều sang trọng ở khu A. Căn lều khá lớn, y như một cái nhà tranh nhỏ ở thôn quê, nhìn qua bên kia đường là phòng thông tin của đảo. Bước vào trong, không khí mát hẳn, chắc là nhờ trần cao và rộng, bên trên lại có những tàn dừa che rợp, ngăn bớt được sức nóng mặt trời. Tôi vọt miệng khen:
– Trời, biệt thự của hai ông bà sang quá. Ở đây mà làm sao có được bộ ván phẳng phiu như vậy… rồi phía trước còn rộng rinh, phía sau làm bếp. Đã thiệt!
Anh Tư đã cởi áo ngoài, chỉ cho tôi cái giếng nước được đào sát bên vách:
– Bồ coi nè, có cái giếng trong nhà, cũng tiện lắm. Khỏi phải đi xa, giành giựt chờ đợi.
Tôi thấy một cái giếng hình vuông vức chừng một thước, nước đen tối hù bên dưới không biết sạch hay dơ. Những nhà rộng, người ta thường đào giếng ngay bên trong để có nước mà dùng. Đằng nhà anh Liêu Thạnh cũng có, khi nào giếng của đảo cạn nước, tôi thường xách thùng lại ảnh mà xin. Cả đảo chừng cũng có trên vài trăm cái, kiểu nầy. Mùa khô cạn nước, người ta đào xới tứ tung. Chị Tư vừa rót nước mời khách, vừa nói:
– Nhà rộng vậy chớ phải chia ba đó. Phần của tụi tôi chỉ có bộ ván nầy. Phía trước và phía sau của chủ khác. Vậy mà phải mua tới năm trăm đồng.
Lều ở Bidong lúc đó có giá lắm. Người đông, đảo lại hẹp nên giá cả tăng vọt. Trung bình một căn nhà nhỏ ngang ba thước, dài bốn thước, bán độ ba trăm đồng Mã Lai. Vàng một chỉ giá sáu mươi đồng. Như vậy tương đương với năm chỉ vàng. Anh Tư nói:
– Thấy thì rộng vậy, chớ đám hát của tụi tôi đông quá, có lẽ phải kiếm mua thêm một cái nữa để chia bớt ra, đêm nào ngủ cũng có đứa bị đạp lọt xuống đất. Ở đây được cái tiện là ở sát hội trường, trung tâm của đảo. Tin tức định cư gì tôi cũng biết hết. Suốt ngày nghe tin phái đoàn đến, tin phái đoàn đi, tin ghe vượt biên, tin các người thân thuộc đến đảo, tin hầm bà lằng… hai ông bà cần biết chuyện gì cứ hỏi, tôi nói cho nghe.
Rồi anh tiếp:
– Ngon lành nhứt ghe mình là Hủ Tiếu. Thằng chả đem được vàng nhiều quá, của tụi mình đóng chớ của ai, mua cái nhà lớn mấy ngàn đồng, bên kia đường đối diện với trạm Cảnh Sát. Nhà chia làm nhiều phòng, nhiều giuờng vì bộ hạ của chả khá đông. Gia đình Hủ Tiếu đi tòan bộ từ bà mẹ già tới mấy đứa cháu nội, cháu ngoại còn ẳm trên tay. Người Tàu họ làm ăn giàu hơn người mình. Vừa tới được một hai ngày gì đó, mua nhà xong bèn lên đồi trực thăng ở khu F móc đất sét đắp thành lò bánh mì. Bột mì ở đây rẻ và bột nổi rất tốt. Ông ta bán một đồng bốn ổ bánh nhỏ. Bánh nóng xốp, thơm ngon và rất dòn. Cây củi thì chặt ở trên núi, thiếu gì…
Tôi cười và nói:
– Vậy Hủ Tiếu lúc nào cũng là người cung cấp dịch vụ, còn tụi mình là người tiêu thụ… Nói rõ hơn theo nghĩa đen, Hủ Tiếu lúc nào cũng có tiền, còn tụi mình lúc nào cũng hết tiền.
Duyên níu lấy tay tôi:
– Thôi, thôi, ông ơi, trưa nóng quá rồi, mình về để anh chị Tư còn lo cơm nước, chuyện Hủ Tíu để thủng thẳng nói tiếp, mình còn ở Bidong nầy lâu lắm mà…
– Ừa, về thì về nhưng để rủ anh Tư chiều nay đi tắm cho vui…
Anh Tư vừa uống nước vừa nói:
– Khi nào bồ đi ngang hú tôi một tiếng là xong ngay, rủ thêm ‘dà’ Sơn với Dân ‘gi đó’ cho đủ bộ..
Giờ nầy cả đảo như bị nung chín, vừa bước ra khỏi cửa hẹp hơi nóng hâm hấp táp vào mặt, tôi vội mở vài nút áo cho thoáng. Con đường về nhà sao mà quá dài, đi hoài cũng chưa tới, chiếc dép lại sứt quai, khiến bước chưn khập khiểng. Những chiếc lều nép sát vào nhau núp nắng, đưa cái nóc xanh ra hứng hết cơn nóng buổi trưa. Mồ hôi đã tươm ra đầy mặt đầy lưng, tôi cởi luôn cái áo vắt vai, mong chờ một cơn gió mát từ khơi xa xăm thổi tới… Bidong sao mà nóng bức quá, những đọt dừa vàng ẻo, những da người đen thui.
Chương 18
HẢI ĐẢO BUỒN LÂU BI ĐÁT (4)
Chúng tôi gồm bốn người lớn và mấy đứa con nít đi một dọc dài, len theo con đường mòn dẫn lên triền đồi cao. Đường dốc cheo leo, hẹp té, hai người đi sóng đôi nhau là thấy chật. Đất ở đây thuộc loại đất sét dẻo quánh, vàng ẻo. Vì nhiều người qua lại, nên mặt đường được nện cứng phẳng lì, thỉnh thoảng có những lạch nước nhỏ chảy ngang, những người lân cận sắp những khúc cây lượm được đâu đó, làm thành những chiếc cầu tạm bợ. Hai bên đường là những chiếc lều đủ mọi kiểu vở, kích thước. Rải rác cũng còn những cây to xanh lá, đứng len lỏi giữa những đám lều chen chúc nhau như những cây nấm lớn, những cây nầy còn lại được là nhờ nó to quá người ta thấy không thể dùng được vào việc gì, hơn nữa muốn đốn lấy củi cũng không phải dễ dàng. Tôi đi thong thả cạnh anh Tư:
– Đảo Bidong ai nói nhỏ đâu, sao đi hoài không tới vầy nè?
Anh Tư Trần Hưng Đạo, tay ôm cái khăn lông lớn, miệng trả lời:
– Cũng tại bồ chọn cái bãi nầy. Phải chi mình tắm ở bãi sau, khu C thì gần hơn khỏi phải đi xa…
Sơn nói tiếp:
– Bãi sau dơ thấy mồ. Người tắm đông quá nên bừa bãi, rác rến tùm lum, tắm đâu có đã. Nó chỉ sạch hơn bãi trước khu A một chút thôi. Mình chịu khó đi xa nhưng tắm đã hơn…
Dân gì đó góp ý:
– Bãi sau dơ thì có dơ gì đó, chớ tắm cũng được lắm chớ. Mình vừa lội vừa nghe nhạc ở trong mấy cái quán cà phê, có cô Thanh Thúy, Khánh Ly, Hoàng Oanh… gì đó hát, nghe cũng đỡ ghiền!
Tư Trần Hưng Đạo quay lại:
– Có nhạc nghe thì cũng được đi, nhưng ngặt hai cái quán Tình Nhớ với Cà Phê Mây chung một vách ny lông, mỗi quán lớn bằng cái lỗ mũi mà lại mua máy thu thanh quay băng loại lớn, từ sớm mơi tới chiều tối, cả hai đều mở âm thanh hết mức, mỗi lần ngồi nghe y như Hùng Cường gây lộn với Chế Linh, Thanh Thúy khóc đua với Thanh Tuyền, nghe muốn điếc con ráy luôn. Tao đoán thế nào có ngày hai thằng cha chủ quán cũng xăng tay áo đánh lộn.
Tôi xen vô:
– Kệ nó, vậy thì nghe một lượt, lỗ tai bên nầy nghe giọng cao, lỗ tai bên kia nghe giọng thấp, để bù lại những ngày sống âm thầm với tụi răng đen mã tấu, tối ngày nghe mấy cái giọng the thé của ca sĩ Hà Nội, ớn tới xương sống. Nhưng ở quán, khoái nhứt là cái món nước đá lạnh. Không biết họ mua ở đâu được nước đá hay quá, có điều khá mắc, một lon Coca hay Seven Up tới hai đồng, cà phê thứ tan liền một đồng rưỡi. Ngồi nhấp nháp ly cà phê đá, ngó ra ngoài khơi thấy mấy cụm mây trắng lãng đãng tưởng Việt Nam mình ở phía dưới đó, đâm nhớ nhà hết sức…
Đường càng lúc càng lên cao chỗ lồi chỗ lõm. Lều đã thưa bớt, nhường chỗ cho cây xanh. Cây lớn cây nhỏ mọc chi chít, chen nhau. Bên dốc đứng, một cây cỡ hai người ôm bị cơn giông lớn thổi trốc gốc, ngã ập dựa lưng vào vách đá, gốc rễ trơ ra tua tủa, bên dưới tạo thành một cái hố sâu hoắm, ngó phát rùng mình. Có vài miếng rẫy nhỏ xíu của những chủ lều lân cận trồng rau dền, rau muống. Chắc mới trồng nên những lá non nhỏ chưa che được hết đất đen. Cọng rau nhỏ ốm yếu tong teo như thân phận người tỵ nạn bọt bèo. Tôi nhìn đám rau nghĩ thương nó, rồi thương chủ nó, rồi đâm ra thương mình! Cái thân ăn đậu ở nhờ, làm sao mà khá được!
Đường đi đã xuống thấp, chúng tôi bước e dè trên những bực đá thiên nhiên. Cục nhô ra cục thụt vào. Qua khỏi một rặng cây, biển đã hiện ra trước mắt. Một vùng biển xanh rì, bãi cát sóng vỗ trắng xóa. Mấy đứa nhỏ con anh Tư thấy nước, mừng rỡ chạy đuổi bắt nhau trên bãi cát trắng, la đùa chí chóe. Cảnh trí thật hùng vĩ. Giữa rừng cây đá núi, một bãi cát trắng ngời ngời sóng nước. Hằng trăm người đang bơi lội nô đùa.
Tư Trần Hưng Đạo khều tôi, nói nhỏ:
– Ê bồ, ngó coi mấy nàng kiều nữ đảo Bidong nè, đã không?
Trên mé nước có vài thiếu nữ trẻ đẹp mặc áo tắm bó sát người, phô bày hết vẻ đẹp của tấm thân ngọc ngà, đi qua đi lại trước hàng trăm cặp mắt ngắm nghía, trầm trồ. Đâu có ai đoán được ở đảo Bidong lại có cảnh như ở Vũng Tàu. Tôi hỏi anh Tư:
– Đố anh, mấy bộ áo tắm nầy từ Mỹ gởi qua cho, hay là mấy cô đó vượt biên đem theo?
– Vượt biên thì không phải rồi. Đi vượt biên run thót ruột, có ai mà nghĩ tới việc tắm biển, tắm sông gì. Một hai bộ quần áo để đổi thay là đủ, đâu phải du lịch. Chắc là bên Tây bên Mỹ thân nhân gởi qua cho.
Tôi và Sơn đồng ý:
– Ừ, ừ, có lý, tôi cũng nghĩ như vậy. Mấy bộ đồ nầy kiểu mới quá, chưa chắc gì ở Sài Gòn có được…
Dân gì đó nhăn răng vàng cười khì khì:
– Đoán trật lất hết trơn. Cái nầy là của họ vượt biên đem theo gì đó. Chớ ở bên Mỹ có gởi thì gởi cho tiền, chớ ai hơi đâu mà gởi ba cái thứ quỉ nầy, tui thấy mấy đứa con gái của Hủ Tiếu cũng có gì đó…
Tư Trần Hưng Đạo trố mắt:
– Cái thằng nầy, chuyện đàn bà con gái người ta, mầy rình mò hồi nào mà biết hết ráo vậy?
Dân gì đó giải thích:
– Tui đâu có rình mò gi đó. Hủ Tiếu biểu tui khiêng hành lý xuống ghe cho Mã Lai xét, thằng ti đu nó lục tứ tung, tui thấy. Mấy người chủ ghe họ đem theo đồ đạc nhiều lắm như dọn nhà, chớ đâu phải như tụi mình gì đó.
Nói xong nó nghĩ là chưa ai tin, bèn tiếp:
– Mấy anh có vợ có con nên không biết, mấy thanh niên trẻ trẻ gì đó, họ vừa vượt biên vừa kéo xe bò…
Sơn nghe tới ba chữ ‘kéo xe bò’ không hiểu gi hết, la lên:
– Tao cũng là thanh niên nè,… mà đâu có kéo xe bò!
Cả đám xúm nhau cười vang. Tiếng sóng đập ầm ầm vô vách đá cũng không át được tiếng cười đùa. Ở bãi nầy, sóng lớn quá, từ ngoài khơi từng lượn cao như cái nhà, ồ ạt xô đẩy nhau chạy vào bờ, cuộn vào trong lòng nước bao nhiêu là sỏi đá, tan dần trên mí cát, hết đợt nầy đến đợt kia, không dứt.
Dân gì đó nắm lấy tay tôi:
– Hồi đó, ở trong trường tụi học sinh hẹn hò với bên lớp con gái, rủ nhau đi chơi thì kêu là ‘lá nĩu xớ’ tiếng Việt dịch là kéo xe bò gì đó…
Tôi thấy ngồ ngộ, bèn hỏi:
– Sao đọc trong sách, không thấy ai nói đến mấy chữ nầy. Tại sao không nói là kéo xe ngựa mà nói là kéo xe bò?
Dân cười:
– Tui đâu có biết, học trường Tàu có nhiều tiếng khác truờng Việt, tụi nó đặt ra để chọc ghẹo gì đó… con trai đi chơi với con gái thì kêu là kéo xe bò, kéo xe bò…
Tư Trần Hưng Đạo xen vô, thêm mắm thêm muối:
– Đúng rồi, đúng rồi. Hẹn hò thì phải cà rịch cà tang ngắm mây ngắm nước, càng chậm càng tốt, chớ đâu có chạy lồng lên như ngựa được. Vậy mấy bồ đoán coi, mấy con bò thì ở đây rồi, còn mấy anh kéo xe bò ở đâu?
Tôi nghe hỏi đưa mắt nhìn quanh. Rải rác trên bờ có năm ba thanh niên ngồi nói chuyện. Trên một gộp đá cao, một người lớn tuổi ngồi câu cá, im lìm như pho tượng. Chắc mấy anh kéo xe bò còn lặn hụp dưới nước, nô đùa với sóng.
Bỗng Sơn nắm lấy tay tôi, chỉ chỏ:
– Coi kìa,.. cái ghe… ngộ quá!
Tôi nhìn theo hướng Sơn chỉ, thấy ở tận đàng xa một cái ghe nhỏ xíu lớn bằng cái hộp đang trồi hụp trên sóng lớn. Trời, đó là cái ghe sao? nó nhỏ quá, thấy mà phát sợ. Biển cả thì mênh mông, sóng nước chập chùng. Cái ghe như chiếc lá khô, nhô lên hụp xuống càng lúc càng đến gần bờ nhưng cũng không thấy lớn hơn bao nhiêu. Có một người cầm chèo đang bơi tận lực. Những cử động hai tay vun vút đưa mái chèo thoăn thoắt nhịp nhàng, chiếc ghe tiến tới rất nhanh. Ồ lạ quá, tôi đã thấy rõ. Sao kỳ lạ vậy? Sao cái ghe lại cháy đen, hư hao gần phân nửa…
Dân gì đó la lên:
– Cái ghe bị cháy gì đó. Cái lỗ lớn quá…
Đám đông đang bơi lội nô đùa, thấy chiếc ghe lạ lùng bèn trố mắt ùa lên bãi cát để coi cho rõ. Cái ghe được đóng sơ sài bằng cây, hình chữ nhựt, dài chừng hai thước, ngang một thước, cao khoảng năm sáu tấc, mới nhìn qua thiệt tình, giống y như… cái hòm! Không biết tại sao dưới lườn lại bị cháy đen, khuyết một lỗ trống hốc, mất đi phân nửa đáy. Anh lái ghe vì sợ nước vô, ghe chìm nên cố ngồi tuốt ra phía sau, dồn hết sức nặng của thân người để đè xuống, chiếc ghe chổng ngược lên, nhờ đó nó còn nổi được trên sóng và lướt tới trước lẹ hơn. Một hình ảnh tuyệt vời của con người nhỏ nhoi nhưng đầy can đãm, chống chỏi với cái bao la hung dữ của sóng gió trùng dương. Tôi thấy cái hộp bằng cây đó, được chèo rất nhanh, lướt phăng phăng tới. Anh bạn chèo ghe ở trần, mặc chiếc quần xà lỏn đen, râu tóc dài thậm thượt, dáng vẻ gân guốc y như một hảo hán Lương Sơn Bạc, đang cố hết sức để đưa chiếc ghe vào bờ, chỉ trong phút chốc người và ghe đụng mé nước. Có tiếng thì thầm của Tư Trần Hưng Đạo:
– Ghe buôn lậu đã bị cảnh sát Mã Lai đốt rồi mà sao còn lấy lại được, chèo đi ào ào như vầy…
Chiếc ghe rấn lên mí cát nhẹ như một chiếc lá rơi, không một tiếng động nhỏ. Đám đông đứng giãn ra hai bên theo dõi người hùng cô đơn, gương mặt lầm lầm lỳ lỳ. Anh không biểu lộ một xúc động nhỏ nào, tay chưn hoạt động đều đặn như cái máy. Cái ghe nằm dốc nghiêng trên mí nước, quả nhiên nó là cái hộp bằng cây bị cháy xém. Nó đã được dùng như phương tiện để chở hàng hóa buôn lậu với các ghe tàu Mã Lai đi ngang qua đảo. Nếu có ai nói với cái hộp cây nầy có thể chèo chống trên biển cả thì không cách gì tôi tin được. Thiệt tình tôi không thể tin một việc lạ lùng ngoài sức tưởng tượng như vậy. Vậy mà chuyện khó tin đó đã xảy ra trước mắt, chiều nay ở bãi buôn lậu nầy. .. Người khách lạ lè làng nhảy xuống đất, chạy ra phía sau, đẩy chiếc ghe lên trên bờ. Từ phía trong vách đá, một người nữa chạy vụt ra, không nói không rằng, phụ với anh bạn chèo ghe, lật úp ngược cái hộp cây lại, rồi cả hai ra sức vác đòng đòng trên đầu đi một mạch vô rừng. Thoáng chốc, người và ghe mất hút trong rừng cây xanh âm u. Tôi cố nhìn theo… nhìn theo, những gốc cây xám đen lẫn với những khối đá sừng sững chặn bít tầm mắt. Chuyện xảy ra nhanh quá, bãi cát trơ ra, sạch bong không để lại một dấu vết, biến hiện như một giấc chiêm bao. Tôi tưởng tuợng ra nhiều điều. Hai anh bạn tỵ nạn kia khiêng cái ghe cháy đó đi tới tận nơi đâu? Họ sẽ tìm cây ván để vá víu lại? Rồi sẽ tiếp tục chèo ra biển bất chấp sóng gió điên cuồng, bất chấp sự trừng phạt dã man của bọn cảnh sát Mã Lai để mua bán trao đổi hàng hóa với người dân Mã, biết bao nhiêu hiểm nguy chực chờ rình rập xung quanh. Động cơ nào đã khiến họ coi thường mạng sống? Ôi, những người bạn đáng thương. Cuộc sống kham khổ ở đảo đã đẩy họ vào những chuyến phiêu lưu vô định. Nhưng người tỵ nạn Bidong cũng nhờ đó mà cuộc sống tạm đầy đủ hơn. Thực phẩm do Liên Hiệp Quốc cung cấp chỉ đủ cầm hơi qua ngày, chợ trời khu D tiếp tay bổ xung những nhu cầu cần thiết, thực phẩm, quần áo, thuốc men và hàng trăm món linh tinh khác.
Sơn và Dân gì đó đua nhau lội ra xa leo lên ghềnh đá, mon men đến gần ông già câu cá. Tôi và Tư Trần Hưng Đạo cũng rán leo theo, Ghềnh đá cao lớn như cái nhà, đứng chắn một góc vịnh nhỏ tạo thành bãi tắm kín đáo. Tòan khu cây đá một màu xanh xanh, bãi tắm vàng tươi nắng cát. Ông già thỉnh thoảng móc lại mồi mới. Ông lấy một miếng bánh mì khô móc dính vào lưỡi câu rồi thả xuống nước. Bánh mì đụng nước biển nở lớn ra, từ từ tan trong sóng. Từng đàn cá thấy mồi ngon lượn quanh đầy nghẹt, giành nhau rỉa rói. Những con cá lớn bằng bàn tay trên mình vằn vện những sọc đen tuyền bơi lội thong dong. Nước biển trong xanh ngăn ngắt. Đàn cá nhiều hàng trăm, hàng ngàn con, bu nhau rỉa cục bánh mì… vậy mà không con nào mắc vào lưỡi câu.
Tư Trần Hưng Đạo vọt miệng làm quen:
Ai về nhắn với ông câu
Cá ăn thì giựt để lâu hết mồi
Ông già nghe xong, cười ngó anh Tư:
– Cá ở Bidong nầy khôn quá, nó chỉ rỉa mà không cắn câu… tôi cũng giựt lên hoài mà không dính.
Tư Trần Hưng Đạo cười hề hề:
– Cá ở Mã Lai bác phải câu bằng mồi cà ri kìa, nó mới chịu ăn…
Ông già cười, xé một miếng bánh mì nhỏ móc vào lưỡi câu, tiếp tục chờ đợi một con cá dại khờ. Tôi đứng nhìn cái lưỡi câu rồi chợt hiểu mà không dám nói. Loại cá nầy nhỏ bằng bàn tay, miệng nhỏ xíu mà ông lại dùng thứ lưỡi câu dùng để câu cá lóc, cá bông lau làm sao mà cá ăn câu cho được. Có lẽ đi tắm kỳ sau, tôi sẽ đem đủ mồi, lưỡi, dây câu để thi đua với ông già. Tôi chắc cũng không giỏi gì hơn ông, khi mua lưỡi toàn là thứ lớn, có ai nghĩ là đi biển lại câu cá nhỏ bằng cá rô ở đồng, miệng nhỏ bằng trứng kiến. Chúng tôi kéo nhau đi lần trở xuống. Nắng đã dịu hẳn, trời sắp về chiều. Tôi đi cạnh Tư Trần Hưng Đạo nhớ tới ông già, buột miệng nói:
Con cá không ăn câu thiệt là con cá dại
Nghĩ đi nghĩ lại đúng là con cá khôn
Dân gì đó vừa nhảy lỏm bỏm trong nước vừa nhận xét:
– Ông thầy giáo ơi, có chuyện con cá mà ông nói dại nói khôn gì đó, làm sao mà tui hiểu được. Thôi, ông thầy có giỏi nói chuyện tụi mình đi. Mình vượt biên như vầy dại hay khôn gì đó?
Cái thằng nhỏ nầy bữa nay nổi hứng sao mà hỏi lắc léo, tôi đâm ú ớ, miệng muốn trả lời mà không biết nói ra sao cho trôi, may quá Sơn đã trả lời thay:
– Dại hay khôn thì chưa biết nhưng chắc một điều tụi mình là những con cá lọt lưới.
Tư máy cày khoái chí:
– Đúng, đúng, dà Sơn hay à nghen, tụi mình là bầy cá lọt lưới, không dại không khôn, nhờ cái lưới rách…
Trời đất, mấy bạn vàng hôm nay lý luận nghe được qúa, có vậy mà tôi nghĩ không ra. Ai dại ai khôn? Ai khôn ai dại? Chuyện chánh trị rối rắm như mớ bòng bong, mỗi lần nghĩ tới là nhức cái đầu. Tôi che dấu cái dốt của mình nói theo:
– Ừ, ừ, mình là con cá lọt lưới… nhờ trời!
Dân gì đó hỏi tiếp:
– Anh nói nhờ trời là tui không chịu gì đó… Tụi mình đi được là nhờ tụi nó tham vàng. Cũng như mấy người buôn lậu ở Bidong nầy nè, nếu không có tiền hoặc vàng đút lót cho cảnh sát Mã Lai gì đó… thì làm sao nó để yên mà làm ăn gì đó…
Tôi thắc mắc:
– Đừng có đoán mò. Ở Việt Nam mình vì chiến tranh loạn lạc, tình trạng xã hội rối ren mới có nạn tham nhũng, hối lộ, chớ ở xứ Mã Lai nầy yên ổn, luật pháp đâu ra đó, làm gì có cảnh sát ăn tiền làm ngơ cho đám buôn lậu…
Tư Trần Hưng Đạo nhìn tôi:
– Đúng là lý luận của thầy giáo! Cảnh sát Mã Lai không tham nhũng, không ăn hối lộ tại sao có cái chợ trời chình ình ở khu D? Tại sao nó đón bắt mấy ghe buôn lậu đem về đốt mà lại để hàng hóa bày bán đầy dẫy ở ngòai chợ? Hàng hóa đó chắc là ở trên trời rớt xuống hay là do ghe cảnh sát hay ghe buôn lậu chở vô?
Tôi lại ú ớ một lần nữa và chợt hiểu, thì ra dầu ở phương trời nào, con người cũng có những tánh tốt và những tánh xấu giống nhau. Hễ nơi nào có pháp luật thì nơi đó có người phạm luật, chỉ khác nhau là mức độ nhiều hay ít mà thôi..
Trời đã dứt nắng. Bên trong rừng cây đã nhá nhem. Tôi đã lên tới mí cát khô, nhờ gió nhiều nên không cần lau, cả người đã ráo hoảnh. Bây giờ trở về là vừa, đoạn đường khá xa, để tối hơn nữa, sẽ không thấy đường đi. Tư Trần Hưng Đạo lo đi kiếm mấy đứa nhỏ còn chạy lăng quăng đâu đó. Tôi đứng ngó bâng quơ trở về ghềnh đá nơi ông già câu cá, bất chợt thấy một ghe buôn lậu lướt theo sóng, đâm vút vào bãi cát. Giờ nầy trên bãi đã thưa người. Chiếc ghe còn nguyên vẹn. Phía trước, một người chèo mũi, phía sau một người chèo lái, ở giữa một đống thùng cạc tông hàng hóa để ngổn ngang. Chiếc nầy cũng giống y chiếc hồi nãy, kiểu cái thùng cây nhỏ xíu được ghép sơ sài. Ở những mối ráp được trét dầu chai để khỏi rịn nước, dấu trét lem nhem vằn vện, chỗ dầy chỗ mỏng.
Tôi kéo Sơn và Dân gì đó lại gần hơn để coi cho rõ. Hai anh buôn lậu đã nhảy xuống nước kéo ghe vào sát bờ, một đầu để gác trên bờ cát. Tôi đếm được tất cả mười thùng cạc tông để giữa khoang. Không biết từ đâu, xuất hiện một đám bạn hàng vây quanh. Mỗi người trên tay cầm sẵn một cọc tiền dầy cộm. Họ thì thầm trả giá. Cuộc thỏa thuận nhanh chóng. Hàng được giao cho những thanh niên đứng phía sau. Họ lập tức vác các thùng cạc tông lên vai, đi nhanh vào rừng, lẹ như những bóng ma. Theo sau là hai thanh niên khiêng ghe cao trên đầu, đi cũng nhanh không kém. Chỉ trong vòng năm, mười phút cuộc mua bán, chuyển vận hàng hóa đã xong xuôi, không còn một chứng tích nào nữa hết. Bãi cát vắng tanh, bóng chiều từ từ buông xuống, quạnh hiu. Tiếng sóng vỗ nghe chừng gấp rút. Mấy đứa nhỏ con Tư Trần Hưng Đạo chạy phía trước, len lỏi trên đọan đường mòn lẹ như những con sóc, chúng tôi lần lượt theo sau. Trong đầu tôi còn váng vất hình ảnh cuộc chuyển hàng vừa rồi. Họ hoạt động phối hợp nhau khéo quá, chính xác nhịp nhàng. Những người tỵ nạn tháo vác, can đảm. Tôi nói với anh Tư:
– Tôi phục mấy anh chàng buôn lậu nầy quá, cái ghe đóng sơ sài ngó thấy ghê, vậy mà dám liều mạng chèo ra biển…
– Cũng chưa hay lắm đâu. Họ còn có ghe để chèo, không nguy hiểm lắm. Có bận tôi thấy một đám cũng buôn lậu nhưng liều mạng hơn nhiều. Họ đông gần mười người, ôm phao lội ra ghe Mã Lai đậu ở ngoài xa bờ cách cả trăm thước để mua hàng. Mua xong họ ôm thùng hàng được gói kín trong bao ny lông, lội trở vô. Cả đám lội y như đàn nhái bị sóng đánh dập vùi, vô được tới bờ người nào người nấy thở dốc, mặt mày xanh xám, thở không ra hơi. Đồng tiền kiếm được phải đánh đổi bằng mồ hôi, nước mắt và đôi khi chính cả mạng sống… Ở Bidong nầy có tất cả năm bãi tắm được. Có hai bãi dùng để chuyển hàng hóa mua được của ngư phủ Mã Lai. Bãi nầy dược đặt tên là Bãi Buôn Lậu. Còn một bãi nữa ở sau khu G, chỗ lều của bồ ở, băng qua một ngọn núi là tới, cũng là bãi buôn lậu, ở đó nhờ có vách đá nhô ra che khuất tầm mắt của cảnh sát nên kín đáo và tiện lợi, giới anh chị thích vô đây hơn. Khi đã cho hàng lên bờ rồi, chỉ cần vác băng ngang qua núi là chui tọt vô chợ trời liền, kể như an toàn trên xa lộ. Chỗ đó họ thường gọi là Bãi Sang Đồ. Nếu dùng chữ của nhà nước ta, thì đó là hai cửa khẩu xuất nhập hàng trốn thuế ..của đảo Bidong!
Tôi nghe anh Tư dùng chữ của Hà Nội mà tức cười:
– Theo anh thì chữ hải cảng của Sài Gòn và chữ cửa khẩu của Hà Nội, chữ nào hay hơn?
Tư Trần Hưng Đại trả lời:
– Chuyện đúng sai, hay dở thì không biết, nhưng cái gì không ưa thì nói là không ưa!
– Tôi cũng y như anh vậy. Mỗi lần nghe thấy tiếng Việt Nam ‘là lạ’ thì hơi khó chịu, không biết tại sao!
Đường trở về có vẻ gần hơn lúc đi. Chỉ trong chốc lát tôi đã bước ngang qua túp lều có đám rau xơ xác. Những cây rau con nhạt nhòa không còn thấy rõ màu xanh. Có vài lều vàng vọt ánh đèn. Những bước chưn hối hả. Bidong sắp đắm mình trong bóng đêm quạnh hiu. Chung quanh người đi đã thưa thớt. Trong không gian tĩnh mịch, tiếng côn trùng rỉ rả khắp nơi nơi. Lẫn trong tiếng động của núi rừng, tiếng loa phóng thanh dưới bãi được gió đưa đi xa, nghe văng vẳng khi nhỏ khi to.
Sơn đi cạnh tôi nói:
– Bây giờ chắc mấy anh buôn lậu đã dấu ghe xong xuôi rồi, hết lo tụi cảnh sát.
Tôi cũng thấy y như vậy:
– Ừ, ừ, cầu trời cho họ được bình yên…
Trong bóng đêm của Bidong có biết bao người sống âm thầm chịu đựng, cũng có biết bao người bằng cách nầy hay cách khác, hành động len lách để sống còn. Tất cả chỉ vì một ước muốn duy nhứt là được hít thở không khí tự do. Từ Việt Nam đến Mã Lai, từ bãi Buôn Lậu đến nơi ẩn dấu hàng hóa trên hốc núi, dọc theo những nẻo đường âm u hẻo lánh bao nhiêu nguy hiểm chực chờ. Ôi! cái giá của tự do phải trả quá đắt, đôi khi chính cả mạng sống quí báu. Một ngày còn vướng chưn trên đảo là một ngày còn khó khăn. Trên bãi Buôn Lậu hay bãi Sang Đồ của Pulau Bidong chập chùng sóng nước, người tỵ nạn khốn khổ Việt Nam còn phải chèo ghe bao nhiêu bận, khiêng hàng bao nhiêu đêm? Họ còn phải chấp nhận đương đầu với bắt bớ, giam cầm, chết chóc bao nhiêu lần nữa mới tới được bến bờ Tự Do?
Ở dưới triền núi những nóc lều xanh đen nhàn nhạt, ánh trăng thượng tuần lạnh ngắt. Những bóng người di chuyển, thoắt biến thoắt hiện như cảnh tượng trong chuyện liêu trai hoang đường…
(Còn tiếp)
.
Võ Kỳ Điền
Bạn phải đăng nhập để bình luận.