.
Chương 19
CÔ GÁI ĐIÊN
Từ phía đồi Tôn Giáo hướng ra trùng dương xa thẳm là một vách đá dài cả trăm thước, tạo thành một bức trường thành chớn chở, giống như cánh tay trái của đảo thò ra biển cả. Những khối đá đen xì rong rêu to nhỏ chồng chất ngổn ngang. Đất đai khô cằn. Tội nghiệp mấy thứ cây dại khẳng kheo mọc len trong kẻ đá, lựa chi nơi đây đâu có được bao nhiêu đất đai mầu mỡ, lại còn phải đưa lưng hứng chịu những cơn gió bão điên cuồng từ ngoài khơi thổi vô. Cây nào cũng cong queo xác xơ còi cọc. Nhưng đâu phải nơi đây chỉ có đá và cây. Cả tháng nay ngày nào đảo cũng tiếp nhận thêm cả ngàn người tỵ nạn ở các hải đảo lân cận đổ về, ngày một nhiều. Chỗ nào cũng đen nghẹt người ta. Những chiếc lều mới đua nhau mọc lên vội vã như nấm gặp mưa luồng. Lều mọc cheo leo ở bãi cát, chen lấn nhau ở sườn đồi, trèo trên hốc núi và bây giờ những căn lều con con ngập ngừng dọ dẫm từng bước lan dần ra tới ghềnh đá, ven biển xa xôi.
Nép mình bên một tảng đá lớn, có một cái lều vừa được dựng lên mới tinh. Ở chỗ cưa cắt thịt cây còn ướt tươi xanh, đầu đinh dấu mới, rỉ sét vàng ẻo. Mặt lều quay ra bờ nước, lưng dựa vào vách đá thiên nhiên, ở vị trí nầy, vừa tiện đường lấy nước vừa tha hồ ngắm gió mát trăng thanh trên biển. Chủ nó, anh Tư Trần Hưng Đạo vừa mới mua được với giá ba trăm. Cái biệt thự cũ ở khu A chật chội quá không đủ chỗ cho mấy đứa nhỏ nhúc nhích, nói chi đến chuyện dành riêng cho anh Tư, chị Tư cục cựa, nên hai ông bà quyết định xài sang, sắm thêm căn lều mới, di tản chiến thuật đám lỏi con lóc nhóc ra đây. Thiệt là tiện lợi đôi bề. Hôm ăn mừng tân gia, Sơn trực thấy lều ở vị trí sơn thủy hữu tình, buột miệng khen:
– Người có tiền bao giờ cũng sướng hơn người… không có tiền!
Cả đám nghe Sơn phán một câu… đúng quá sức, xúm nhau mà cười. Thằng Dân ‘gì đó’ suy nghĩ ra sao không biết, thủng thỉnh nói:
– Mà người không có tiền, chơi với người có tiền cũng sướng lây gì đó!
Chị Tư vừa háy Dân, vừa nói:
– Chú Dân gì đó bữa nay nói chuyện cũng khéo léo quá sức! Vậy anh chị rủ mấy chú khi nào trời nóng nực cứ tự nhiên ra đây mà ngủ cho mát…
Út Trung xen vô:
– Cứ tự nhiên coi như là lều của mình!
Anh Tư máy cày cười:
– Ừ, ừ, mấy bạn đừng ngại gì hết nghen. Mấy em còn nhỏ quá, có người lớn coi chừng dùm anh chị yên tâm. Lều rộng mênh mông, tha hồ mà lăn…
Do vậy mà những đêm trăng sáng trời trong, tôi ôm mùng mền chiếu gối thả lang thang ra nhà mát Vũng Tàu ngủ nhờ. Ở đó, tôi thường gặp Út Trung hay Dân gì đó để nói dóc cho vui, vừa tha hồ ngắm cảnh biển cả về đêm lồng lộng ánh trăng cho đã thèm, biết đâu nhờ đó mà hồn thơ lai láng, tứ thơ dào dạt… Tôi thấy trăng thì cũng có đôi khi nhưng thấy mấy anh em của khối tiếp liệu làm việc nhiều hơn. Ở trước lều nhìn ra thì thấy cầu supply chạy dài ra biển. Các ghe tàu tiếp tế hoạt động không ngừng. Cạnh cầu, một dãy nhà kho chứa hàng hóa được cất dọc theo bờ biển. Nhân viên tình nguyện của khối đông gần cả ngàn người, mỗi ngày thay phiên nhau làm việc liên tục chuyển hàng từ tàu lớn xuống ghe, từ ghe nhỏ lên cầu tàu rồi dùng xe cút kít đẩy vào kho. Từ sớm mơi cho tới chiều tối, những đoàn người khuân vác chuyên chở nối đuôi nhau đi về, như đàn kiến tha mồi vào tổ, đông nghẹt chen chúc nhau. Khối tiếp liệu còn phải lo cung cấp thực phẩm, nước uống, vật dụng cho khoảng bốn chục ngàn người. Số lượng hàng hóa nhiều kinh khủng, chất cao như núi, nhưng nhu cầu cũng lại quá lớn. Hình như hàng cung cấp chưa đủ dùng… Không bao giờ đủ hết! Ở Bidong, có bao giờ đủ đâu!
Cứ mỗi vài tuần cả trại được tiếp tế cá, thịt bò (Mã Lai theo Hồi Giáo, cấm ăn thịt heo) hoặc rau cải tươi thì phải chuyển hàng từ ghe vô liền và phát ngay tại chỗ, nếu để lâu thịt cá sẽ ươn thối. Do đó các món nầy thường được phân phối về đêm. Ở trên nhà mát Vũng Tàu nhìn xuống kho hàng tiếp liệu, đèn đuốc sáng rực. Người chờ đợi đông nghẹt dưới bãi cát. Vì ở quá xa, cảnh vật dường như nhỏ lại, tôi tưởng chừng như đó là sân banh rộng, trẻ em đang chen chúc giành coi hát bóng ngoài trời. Buổi chiều khi đi ngang qua đám đông đang chờ đợi tới phiên để lãnh gà đông lạnh, tôi chợt nghe có tiếng người kêu:
– Thầy, thầy…
Hình như ai đó kêu tôi, tôi dừng bước ngó quanh. Một thiếu phụ còn trẻ từ xa rẽ đám đông đi tới. Tôi khựng lại, đúng là cô ta kêu tôi. Cô còn trẻ lắm, chừng độ hai bảy, hai tám là nhiều. Người cô nhỏ quá như bị chìm trong đám đông. Tôi rán lục lọi trong mớ trí nhớ -người quen hay học trò cũ? Nét mặt tuy đẹp nhưng đầy vẻ phong trần.
– Chắc thầy không nhận ra em. Em là Nguyễn, ngày xưa học ở Hoàng Diệu lớp Đệ Nhị…
Nguyễn học Hoàng Diệu ở lớp Đệ Nhị? Tôi rời Sóc Trăng đã trên mười mấy năm rồi còn gì, thiệt tình không nhớ ra. Cái trí nhớ lãng đãng. Ở Hoàng Diệu có mấy ngàn học sinh mỗi năm, làm sao nhớ cho hết…
Cô ta nguớc nhìn tôi. Ánh mắt như cuốn hút, như van lơn – thầy hãy rán nhớ, rán nhớ…
Tôi không thể để lộ nét vô tình, bèn đáp ngập ngừng: -Ờ, ờ, tôi nhớ ra rồi, em học lớp Đệ Nhị A1. Quách Mỹ Lợi làm trưởng lớp phải không?
Người học trò cũ mừng rỡ kêu lên:
– Thầy nhớ hay quá, em cứ sợ thầy quên. Hồi đó thầy dạy Việt Văn, thầy Long cao dạy Lý Hóa, thầy Bình dạy Toán…
Tôi tiếp theo:
– Trong lớp có Trần Đông Triều hát hay, có ca sĩ Diệu Thanh, có thi sĩ Triều Uyên Phượng của thi văn đoàn Sông Hậu…
Nguyễn hình như đoán được là tôi chỉ nhớ có chừng đó, nên nhắc thêm vài chi tiết:
– Em ngồi ở bàn thứ nhì, cạnh Túy Lan, thầy nhớ không, Túy Lan đó!
Tôi chợt nhớ ra:
– Đúng rồi, đúng rồi. Hồi đó, em nhỏ xíu. Phải nhà em ở đường giữa, đối diện tiệm mì Á Đông?
Nguyễn mừng rỡ nói tía lia:
– Vậy là thầy đã nhớ ra em. Hồi còn đi học vui quá, chỉ biếc chơi giỡn, làm biếng ghê bị các thầy cô la hoài. em sợ nhứt là Toán với Lý Hóa…
Tôi nheo mắt:
– Còn môn Văn?
– Cũng sợ luôn. Có một lần làm Luận Văn em dở sách ra chép, bị thầy nói lạc đề…
Như một cái máy phát thanh tôi vặn đúng tần số, cô học trò cũ nhắc liên miên những ngày còn cắp sách đến trường. Có lẽ Nguyễn và tôi đều có chung một hoàn cảnh, một kỷ niệm. Tôi cũng vui lây niềm vui của Nguyễn, tai lắng nghe những mẫu chuyện không đầu không đuôi được kể vội vàng.
Bên tai tiếng Nguyễn vẫn đều đều:
… hồi đó thầy Long lùn cưới chị Sơn Mai ở lớp Đệ Tam, cả trường xôn xao dễ sợ. Tụi em đoán sau thầy Long là…
Tôi chận ngay: -Ai vậy?
Nguyễn cười lém lỉnh, nhìn tôi nói tỉnh rụi:
– Tới thầy chớ ai. Cả tỉnh ai cũng biết thầy với Túy Lan thương nhau mà!
Cái tên Túy Lan vừa được nhắc tới khiến tôi bàng hoàng. Tôi cười khỏa lấp, láy sang câu chuyện khác:
– Em lập gia đình chưa? Sang đây một mình hay đi với gia đình?
– Dạ thưa, em đi qua đây có một mình. Nhà em bị đi học tập. Thầy nhớ Trương ở Đệ Nhứt B1 không? Ảnh đậu xong Tú Tài rồi được vô Không Quân… rồi bị bắt cho tới giờ. Em chờ hoài không biết sống chết ra sao, không tin tức gì hết, nên đành phải ra đi…
Tôi nhớ Trương rất rõ, người ốm ốm dong dỏng cao, tánh khí cứng cỏi ngang tàng. Ông Tổng Giám Thị nhiều phen điên đầu với anh ta..
Tôi hỏi tiếp:
– Em qua được bao lâu rồi, được nước nào nhận chưa?
– Dạ đi hồi tháng tám năm ngoái, lúc trại Bidong nầy mới mở, tính đến nay cũng đã bảy tám tháng rồi, đã được phái đòan Mỹ phỏng vấn, còn phải chờ người bên đó bảo lãnh mới được đi. Em chờ hoài, chờ hoài, nhiều khi tuyệt vọng muốn điên luôn. Thầy biết không, ở đảo một ngày là khổ một ngày, em một thân một mình, không chồng con anh em kế bên nương tựa. Bây giờ bất cứ nước nào nhận là em cũng đi liền. Nhiều khi em nghĩ ra đủ mọi cách để được đi cho lẹ. Cách nào cũng được…
Nghe Nguyễn nói, tôi ái ngại hết sức Thiệt tội cho Nguyễn, chồng đi học tập chết sống ra sao chưa biết, một thân một mình bơ vơ nơi đất lạ quê người. Làm sao mà xoay trở, tôi nghĩ không ra. Nhìn vào đôi mắt nai ngơ ngác của Nguyễn, tôi thấy cả bầu trời tối đen thăm thẳm. Cô học trò quá bé nhỏ ốm yếu của tôi ngày nào, làm sao chống đỡ những khó khăn tuyệt vọng vây quanh? Những ngọn đèn vàng vọt chấp chóa, gió thổi rào rào trên những đọt dừa. Tôi cố nén tiếng thở dài, nhìn ra tận đàng xa. Tất cả là màn đêm thăm thẳm, mịt mùng. Ôi! Những người học trò cũ, đáng thương của tôi. Nguyễn ơi! Trương ơi! Tôi chia tay Nguyễn để về lều Tư Trần Hưng Đạo, chưn bước mà không biết mình đang đi. Có cái gì chua xót, dằng dặc, mang mang vương vấn. Ở đảo Bidong nầy đâu phải chỉ có mình Nguyễn… đâu phải chỉ có mình Nguyễn! Hàng ngàn, hàng ngàn thiếu phụ xa chồng xa con, cam lòng chịu đựng biết bao oan nghiệt đổ ập xuống thân phận ốm yếu còm cõi. Nói sao cho xiết! Không lẽ con người được sanh ra chỉ để chịu đựng nỗi khổ đau?
Buổi tối nước thủy triều dâng cao, sóng đánh tạt lên tới chơn đồi., bãi cát còn hẹp té Tôi phải bước trên những tảng đá cao khỏi mặt nước. Nước biển về đêm phản chiếu ánh đèn vàng như những đốm lửa nhỏ lao xao. Út Trung đang ngồi thơ thẩn một mình ở ngạch cửa. Mấy đứa nhỏ đã ngủ. Căn lều tối thui. Tôi lò dò leo lên thang ngồi cạnh Trung. Đầu óc còn mang mang hình dáng nhỏ nhắn của Nguyễn. Phía dưới kho tiếp liệu, đám đông còn bu quanh ánh đèn như con thiêu thân. Nguyễn đang đứng ở chỗ nào? và nàng còn phải chờ đợi bao lâu nữa?
Út Trung quay qua tôi, hỏi:
– Anh có chuyện gì mà hôm nay ra trễ quá vậy?
– Ờ, ờ, giữa đường gặp một cô học trò cũ, thầy trò vui miệng nhắc lại chuyện học hành ngày xưa…
Trung cười hà hà chọc tôi:
– Biết ngay mà, mấy ông thầy giáo hơn người khác là ở chỗ đó. Em mà có dịp về sống ở Việt Nam… cũng rán xin đi dạy học.
Tôi trả đũa liền:
– Chú Út tính vậy là trật rồi nghe hôn. Tôi mà được trở về thì học nghề kỹ sư canh nông chớ không thèm làm gíáo sư dạy học nữa đâu, khổ lắm. Làm kỹ sư như chú Út, ít ra cũng dễ kiếm… ruộng mà cày, còn thầy giáo như tôi kiếm một miếng đất cắm dùi cũng trầy vi tróc vảy. Thiên hạ hễ thấy thầy giáo làm cái gì cũng bàn ra tán vô. Thầy giáo cũng y như thầy tu…
– Trời ơi, anh nói quá. Ai cấm anh, người đẹp cả trường, anh không chọn được cô nào sao? Hễ gặp ông nào dạy học, cũng rên là kiếm vợ không ra. Ai mà tin… Cuối cùng thì thầy nào thầy nấy cưới vợ đẹp thấy mồ…
Nghe Trung nói tới đây tôi chợt mỉm cười. Cũng như Nguyễn đã nói khi nãy -thầy với Túy Lan thương nhau ai cũng biết mà. Lời khẳng định như đinh đóng cột, vô phương cạy gỡ. Nhưng ở đời có nhiều chuyện tưởng vậy mà không phải vậy. Nhiều phen tôi tự đặt cho mình câu hỏi, tình yêu là gì? Cho tới bây giờ vẫn chưa có câu trả lời thỏa đáng.
Cái mùng lớn quá, bốn đứa nhỏ nằm chèo queo trong một góc. Tôi và Út Trung nằm chắn bên ngoài. Lều không có cửa. Gió ngoài khơi thổi tạt vách mùng nghe man mát. Út Trung đã ngủ, tôi nghe tiếng thở phập phồng. Tôi cũng muốn đêm nay ngủ một giấc thiệt say nhưng không biết vì sao cặp mắt vẫn ráo hoảnh. Tai nghe tiếng sóng ì ầm ngoài ghềnh đá mà đầu óc nhớ lan man -như một cuộn phim thời gian quay ngược. Hình ảnh còn rõ nét như mới hôm qua. Túy Lan dáng ốm cao cao ngồi cạnh Nguyễn, Nguyễn nhỏ con ốm yếu bịnh hoài. Thưở đó tôi vừa mới ra trường, đổi về Sóc Trăng dạy học. Những ngày đầu tiên tôi dạy lớp Túy Lan. Sau một buổi học, khi ra về, nàng đến gặp tôi ở cửa lớp, ngập ngừng:
– Dạ thưa, má em xin gởi đến thầy và các thầy ở chung nhà mấy cái vé hát… Rạp nầy của nhà em!
Tôi cầm mấy cái vé nho nhỏ, cám ơn:
– Nhờ em nói lại với má, thầy và các bạn cám ơn má nhiều lắm. Mà tối nay rạp hát phim gì đó, chắc là hay lắm!
Túy Lan đáp lí nhí, nửa như muốn cười mà không dám, mặt đỏ ửng:
– Dạ, dạ, ‘Hiệp Sĩ Mù Nghe Gió Kiếm’.
Tôi bật cười. Hèn chi, mới tuần trước đây vừa coi Hiệp Sĩ Mù Trừ Gian Diệt Bạo, phim Nhựt Bổn đánh kiếm hay dễ sợ, nữa đêm vãn hát về ngang nhà nàng, cả đám vừa đi vừa bìmh luận um trời, chắc má nàng ngủ không được nên biết. Sóc Trăng xa cách Sài Gòn, đám giáo sư mới ra trường, còn quá trẻ, buồn tình không biết đi đâu, thôi đành chun vô rạp xi nê, cười một hồi cho qua ngày tháng.
Do sự tình cờ đó mà tôi quen biết với gia đình nàng, rồi từ đó tôi thường lui tới thăm viếng nhiều hơn. Ba Túy Lan mất sớm, mẹ nàng ở vậy nuôi con. Bốn cô con gái đều tới tuổi dậy thì. Túy Lan là con đầu lòng rồi tới Chi Lan, Quỳnh Lan, Diễm Lan. Cũng may gia đình khá giả, mẹ nàng lại quán xuyến đảm đang. Bà lớn hơn tôi chừng hai mươi tuổi nhưng dáng còn trẻ lắm. Bốn cô Lan tuy trẻ nhưng không cô nào bì được mẹ. Túy Lan ốm nhách cao lêu khêu, Chi Lan mập phục phịch. Quỳnh Lan đen thui và Diễm Lan mắt một mí, nhỏ xíu. Phải chi mỗi cô được giống mẹ chừng phân nữa thì cũng ăn đứt thiên hạ rồi… Tỉnh lỵ Khánh Hưng nhỏ quá, chuyện gì có chút xíu, người ta cũng bàn ra tán vô. Nhứt là chuyện của mấy ông thầy giáo làm quen với học trò! Hình như bắt đầu có tiếng xầm xì đâu đó. Có lần ông tùy phái già hóm hỉnh:
– Ông giáo sư biết không, đất nầy ngộ lắm. Sóc Trăng đi dễ khó về, trai đi có vợ, gái về có con.
Thọat nghe qua là biết ông muốn ghẹo tôi có vé coi hát hoài, bèn cười mà đáp:
– Ờ, ờ, tôi cũng muốn làm rể đất nầy cho rồi, bác thấy được không?
Ông già nghe vậy chịu quá, đốc vô liền:
– Được, được, chớ sao không, mình cưới hỏi đàng hoàng mà, ai nói gì thây kệ họ. Tôi thấy có trở ngại gì đâu.
Quả tình tôi cũng thấy đâu có gì trở ngại. Nhưng hình như các nữ đồng nghiệp độc thân và các nam sinh ngày một xa cách, nói xa nói gần, tỏ vẻ khó chịu khi gặp tôi. Riêng Túy Lan thì thái độ nàng có vẻ ân cần săn sóc tôi hơn. Có cái gì khác thường trong ánh mắt, trong nụ cười. Trời, nàng tiến bộ môn Văn bất ngờ. Những bài luận mới làm khéo đến độ tôi đọc lên cả lớp ngẩn ngơ. Mà đâu chỉ có môn văn Túy Lan thay đổi. Nàng bắt đầu ăn mặc chải chuốt, trang điểm tỉ mỉ. Tôi thấy son môi nàng đỏ hồng, phấn má nàng trắng mịn. Tôi vẫn đến thăm gia đình nàng thường xuyên. Một hôm mẹ nàng trong câu chuyện hàn huyên, nói mở lời:
– Ông giáo sư bộ tính ở hoài như vậy sao nè… Có để ý tới cô nào chưa, tôi làm mai dùm cho. Tỉnh nầy tôi quen biết nhiều lắm. Đừng có lo, mình thương ai thì cứ nói… tôi tin thế nào cũng được mà…
Rồi tiếp theo, bà nói nghe dễ hết sức:
– Tôi có bốn con Lan, ai mà thương đứa nào là tôi gả liền…
Nghe bà nói tôi ngồi lặng thinh, thẩn thờ. Túy Lan, Chi Lan, Quỳnh Lan, Diễm Lan, tôi thương ai? Câu hỏi khó quá khiến tôi trăn trở nhiều đêm. Người mà tôi thương, bà không biết đâu. Mà bà không biết thì thiên hạ xung quanh làm sao biết được. Ngay cả chính lòng tôi, tôi cũng không biết mình đang yêu ai? Vậy thì làm sao để nói ra?
Tôi đổi thế nằm lăn qua một bên, gấp tay làm gối kê đầu. Cứ tưởng sẽ ngủ như mọi bận, nào ngờ cứ thao thức hoài. Chiều nay vô tình Nguyễn nhắc thoáng qua một kỷ niệm xưa, tôi đâm nhớ lại loạt phim Hiệp Sĩ Mù, nhớ lại những buổi chiều nói chuyện nắng mưa, nhớ lại ánh mắt sáng long lanh, nhớ nụ cười duyên dáng, nhớ về một góc trời Sóc Trăng, ở đó có người khiến tôi một thời xao xuyến… Tất cả như cơn gió thoảng… rồi mất hút theo năm tháng vô tình.
Tiếng Trung bắt đầu ngái lớn, Chắc anh chàng đang ngủ say. Đêm chừng khuya lắm, vạn vật im lìm. Bidong chỉ còn duy nhứt tiếng sóng cô đơn, vỗ ầm ầm vào ghềnh đá. Nước thủy triều giờ nầy chắc dâng ngập tràn bãi cát. Tôi nằm im, lắng nghe tiếng đì đùng của sóng vỗ, vang dội trong đêm trường tịch mịch. Âm thanh của sóng đều đều mang theo một chút gì êm ái vỗ về, như tiếng võng đưa, khiến lòng tôi triền miên cảm xúc. Gió bắt đầu thổi mạnh hơn, môt góc lều cột không kỹ bị gió thốc nên kêu phần phật. Có tiếng chuột chạy rần rật dưới sàn lẫn với tiếng ú ớ, chép miệng của mấy đứa nhỏ. Tôi nghe mí mắt nằng nặng sắp thiếp vào giấc ngủ nồng, bỗng giựt mình thảng thốt vì tiếng loa từ đỉnh đồi Tôn Giáo vang lên sang sảng trong đêm khuya thanh vắng:
– Đồng bào trong trại chú ý, đồng bào trong trại chú ý…
Giọng nói có vẻ gấp rút kỳ lạ. Tôi đoán thấy có chuyện gì xảy ra ở Hội Trường. Giờ nầy ít ra cũng một hai giờ khuya, lẽ nào phòng thông tin lại báo một tin bình thường, bèn lay Út Trung dậy để nghe cho rõ. Út Trung đương ngủ ngon giấc, thức dậy ú ớ:
– Cái gì vậy? Cái gì vậy?
Tôi chưa kịp trả lời thì tiếng loa vang vang:
– Vừa rồi có một cô gái, thừa lúc nhân viên canh gát không để ý đã lén xông vào hội trường, đến nơi cư ngụ tạm của các nhân viên phái đoàn ngoại quốc…
Trung la lên:
– Chết cha rồi, sao kỳ cục vậy?
– …cô ta ôm chầm lấy một nhân viên của phái đoàn Hoa Kỳ và khóc nức nở trong tình trạng điên lọan. Cũng may vị nầy đã vùng dậy kịp và tri hô lên. Các nhân viên an ninh đã giữ cô lại được. Ai là thân nhân của cô, hãy mau đến hội trường để lãnh cô về…
Tôi nằm im, miệng nói:
– Chắc là cô ta bị khủng hoảng thần kinh, tội nghiệp. Cũng may, thằng Mỹ còn đủ bình tỉnh, nếu không tưởng Việt Cộng nhào vô tấn công, nó rút súng bắn chắc chết…
Trung đáp:
– Ừ, ừ, trên đảo nầy biết bao nhiêu thảm cảnh đau thương, chết chóc… nên dễ mắc bịnh tâm trí lắm. Thiệt tình, bịnh nặng quá rồi, nửa đêm đi đâu bất nhơn vầy nè…
Tôi nghĩ đến cái hội trường có cái hàng rào bằng cây thấp, có cái cổng vuông vuông, có một dãy nhà rộng mà dài được ngăn ra nhiều phòng. Chắc mấy nhân viên của phái đoàn phỏng vấn vì làm việc quá lâu không kịp về bên Kuala Trengganu ngủ qua đêm, nên tạm thời phải ở lại Bidong. Có thể họ kê vài cái bàn làm việc của trưởng trại để nghỉ tạm, giống như chúng tôi thời còn ở trung học Hoàng Diệu, đêm đêm phải gác trường. Tôi tưởng tượng ra ở đó bây giờ có một cô gái đầu bù tóc rối, nước mắt nước mũi nhòe nhoẹt, mắt trợn ngang trợn dọc, la hét om sòm, quần áo nhăn nhúm tả tơi, đang bị mấy anh an ninh trật tự giữ tay giữ chưn chặt cứng. Anh Mỹ nào đó chắc phải một phen hú vía, mất ngủ luôn đêm nay.
Tiếng loa lại tiếp tục léo nhéo…‘vừa rồi có một cô gái… ôm chầm lấy một nhân viên…Ai là thân nhân, hãy mau đến hội trường để lãnh cô về’.
Trung nói:
– Chắc bây giờ ở hội trường người ta bu đông rần rần. Thế nào cũng có anh Tư cho mà coi, dễ gi ảnh bỏ qua chuyện hấp dẫn nầy… Mà cái điệu nầy, mai mốt phái đoàn phỏng vấn làm sao dám ở lại ban đêm…
Nói tới đó Trung lại bật cười:
– A, cái anh chàng Mỹ nào đó điên chớ đâu phải cô gái điên!
– Nói cái gì vậy, tại sao anh Mỹ lại điên?
Trung phân tách:
– Nếu cô ta điên thì làm sao đi vô trại khơi khơi được, qua hàng rào an ninh đâu có dễ. Anh thử nghĩ coi, cô ta phải khôn ngoan lắm, tính toán kỹ lưỡng mới lọt vô tới đó…
Tôi bán tín bán nghi, chống chế:
– Mấy ông nội an ninh đó mà, nửa đêm ngủ mê như chết, có ai mà để ý canh gác chi cho mất công. Ở đảo nầy có Việt Cộng đặc công gì đâu mà phải kỹ lưỡng…
– Anh nói vậy chớ, muốn vô tới chỗ ngủ của mấy anh Mỹ cũng đâu phải dễ… Cô ta có làm gì đâu, chỉ ôm anh Mỹ mà khóc. Sao gọi là điên được?
Nghe Trung nói tôi chợt lóe ra vài ý nghĩ lạ, có thể Trung có lý.
Rồi Trung cười ngất:
– Cả đảo bốn chục ngàn người nằm ngủ đầy trời, dễ quá mà, muốn ôm ai lại không được, tại sao phải chui vô hội trường, kiếm thằng Mỹ phỏng vấn mà ôm… Hà, hà… Rõ ràng thằng Mỹ điên! Nếu em là nó, em không la khi bị cô ta ôm!
Tôi ngạc nhiên:
– Thôi đi bạn, nửa đêm đương ngủ, tự nhiên có người lạ nhào vô ôm mình, không phát hoảng sao được.
– Anh la là dở, tại anh mất bình tỉnh. Em mà đương ngủ, cô nào nhào vô ôm em là em ôm lại liền… ôm cứng ngắt, khà khà…
Trung nói xong, tôi nghe cũng phì cười:
– Vậy là Trung ngon lành hơn anh xa quá!
Trung nói tiếp:
– Suy nghĩ cho cùng, anh nào viết bản tin vừa rồi là thêm mắm thêm muối kiểu mấy ông văn sĩ cho đậm đà, chớ sự thật không phải như vậy!
Tôi hỏi:
– Sai chỗ nào đâu, bản tin viết rõ ràng gẩy gọn…
– Ở chỗ ‘…ôm lấy một nhân viên phái đoàn Hoa Kỳ và khóc nức nở…’ Theo em thì có thể cô đó có ôm chầm lấy anh kia nhưng không có khóc. Tại sao khóc? Chuyện ôm và chuyện khóc khác nhau. Đến khi bị la hét xô ra và bị an ninh bắt, cô ta mới khóc nức nở vì xấu hổ. Anh thấy đúng không?
– Ờ, ờ cũng có lý à Trung. Bạn học Canh nông nghiên cứu về rau đậu, lúa má sao mà phân tách tâm lý người ta y như cảnh sát điều tra tội phạm vậy? Thí dụ như mấy lời bàn hồi nãy giờ đúng hết đi, thì câu chuyện xảy ra vừa qua, đó là cái gì?
Trung gác tay lên trán hồi lâu chậm rãi nói:
– Em không dám chắc nhưng đại khái có thể hiểu, cô ta ở đảo đã quá lâu. Cuộc sống lúng túng khổ sở, chịu đựng hết nổi rồi, cố tìm cách để được đi định cư cho lẹ. Thôi đành nửa đêm chun vô chỗ ngủ của phái đoàn phỏng vấn, năn nỉ để được đi sớm ngày nào hay ngày nấy. Nếu cần phải hy sinh… cách gì cũng chịu! Xui xẻo là gặp thằng Mỹ ngu, cũng có thể là ngôn ngữ bất đồng…
Nghe Trung phân tách rành rọt, tôi kêu lên:
– Trời, nếu đúng vậy thì thật đáng thương. Hoàn cảnh đưa đẩy đến như vậy thì thiệt là tội nghiệp!
Trung im lặng không nói nữa…Tôi cũng nằm im.. Mỗi thằng một ý nghĩ. Có những người sanh ra chỉ để chịu khổ đau, có nỗi đau nào giống nỗi đau nào! Sóng càng lúc càng lớn, tiếng ầm ầm ở ghềnh đá vang ra thăm thẳm. Tiếng sóng ở bờ Việt Nam chắc cũng nghe đau thương như ở đây, tiếng sóng của cô gái ‘điên’ đêm nay! Tội nghiệp thân phận người tỵ nạn bọt bèo, đáng thương biết bao nhiêu, ở vào hoàn cảnh trái ngang, người ta phải tìm cách vượt thoát bằng mọi lối, kể cả phải chấp nhận phải hy sinh những gì quí báu nhứt…
Bỗng nhiên Trung tiếp tục:
– Phải khen anh chàng thông tin nầy mới được. Nếu anh ta nói trên loa phóng thanh điều mà anh em mình bàn cãi hồi nãy giờ thì cô gái nầy còn mặt mũi ngó ai nữa.
Tôi đồng ý hoàn toàn:
– Ờ, ờ, hay quá, cứ cho là cô ta điên loạn rồi đưa về nhà… êm ru bà rù… Không ai đàm tiếu gì hết. Tuyệt diệu, thằng cha thông tin nầy đáng bậc sư tổ!
Hình như chưa có thân nhân nào đến nhận lãnh cô gái, tiếng loa lại tiếp tục vang vang bổ túc thêm vài chi tiết mới:
– có cô gái điên ở hội trường… ốm ốm nhỏ người, trạc cở hai mươi lăm tuổi, mặc quần dài đen, áo tím ngắn tay… ai là thân nhân…
Nghe tới đó như có luồng điện mạnh từ đỉnh đầu chạy đúng vô tim, tôi la lên:
– Trời! Chết cha rồi…
Trung ngạc nhiên:
– Cái gì mà la lối vậy ông thầy, bộ có quen với cô gái điên đó hả?
Tôi im lặng không trả lời câu hỏi của Trung. Trả lời sao được nữa. Tôi muốn ngộp thở, hai quai hàm cứng ngắt mở không ra, tim đánh bình bịch trong lồng ngực, toàn thân cứng đờ. Cái lều vững chắc như vậy mà tôi cảm thấy nó lung lay run rẩy, rồi nước mắt ở đâu không biết trào ra, ban đầu còn ít, dần dần không kìm được nữa nó chảy ra như suối. Những giọt lệ nóng hổi chảy đầy trên má, trên môi. Nước mắt chảy tràn vô miệng mặn đắng… Thầy thương em quá Nguyễn ơi… Nguyễn ơi!
Chương 20
TÀU BỊNH VIỆN ĐẢO ÁNH SÁNG (1)
Hình như ông trời cũng khá công bình, hễ cho ai một chút hạnh phúc thì ổng đòi phải trả lại bằng khổ đau, như việc tôi ngủ nhờ nhà mát Vũng Tàu của Tư Máy Cày. Ngủ đêm ở đây thì sướng được nhiều chuyện. Trước hết là chuyện cái giường. Tuy mặt giường nào ở Bidong cũng làm bằng những khúc cây nhỏ, có u có nần ghép lại, nhưng anh Tư đào đâu ra không biết, được mấy cái thùng cạc tông của khối tiếp liệu vứt bỏ, mấy tấm cạc tông nầy quí như vàng, anh bèn xé trải thẳng ra làm nệm để lót giường, mỗi lần ngã lưng nằm xuống, đã lắm, êm như nệm gòn. Giường rộng mênh mông, tha hồ duỗi tay duỗi chưn, ngoài ra còn có bạn bè thân tình để hàn huyên tâm sự, rồi còn có gió mát trăng thanh trên biển thiếu gì… Tôi còn đòi hỏi gì hơn nữa!
Nhưng chuyện đời đâu có đơn giản như mình muốn. Đêm ở đây thì ít khi nào đi ngủ sớm, khi không có chuyện gì để nói tới nói lui, tôi ngồi ngó trăng, ngó nước, ngó đọt đừa, ngó lửa lập lòe trên đỉnh núi…cũng kéo dài tới khuya, nói chi ở đảo ngày nào cũng có đề tài hấp dẫn để bàn cải, thảo luận. Tối nào cũng thức cho tới một hai giờ sáng. Cái nổi khổ là ở chỗ nầy. Thức khuya thì phải ngủ trưa một chút để bù lại… nhưng đâu có được. Thiệt tình không được!
Ở nơi khỉ ho cò gáy xa mút tí tè, cứ tưởng được yên thân, không ai quấy rầy, nào ngờ lại ồn ào, náo nhiệt hơn ở chợ trời nữa. Chợ trời họp sớm lắm cũng tám, chín giờ sáng. Còn ở đây người ta họp lúc trời còn khuya mịt mùng, mới độ bốn năm giờ, đêm đen còn tối mù mù. Trăm lần như một, mắt nhắm chưa được bao lâu thì bổng bị dựng đầu dậy, rải rác ở chỗ nầy chỗ kia, thiên hạ chửi nhau chí choé. Làm sao mà ngủ nghê cho được! Thiệt tình không được. Nghĩ mà giận… nhưng cũng không biết giận ai? Giận thằng cha hàng xóm vô duyên cứ lải nhải hoài, hay là giận mấy người ngồi chò hõ ở mấy cục đá ngoài kia, hay là giận ông trưởng trại Bidong bất nhơn, không chịu cất nhà cầu để người ta gây lộn nhau hoài ?
Cả đảo chứa gần bốn chục ngàn người chen chúc đông nghẹt, vậy mà không có lấy một cái nhà cầu để giải quyết vấn đề vệ sinh cho toàn trại. Làm sao bây giờ, cái gì cũng có thể xếp hồ sơ, để dành thủng thỉnh giải quyết sau, chớ cái vụ đó …đâu có để dành được. Thành ra cứ mỗi buổi sáng sớm trời còn tờ mờ, bất kể nam phụ lão ấu, ai nấy đều lang thang kiếm nơi chưn trời góc biển thích hợp đâu đó, để giải quyết bầu tâm sự mang nặng trong đêm. Còn chỗ nào lý tưởng hơn chỗ nầy, vừa xa hàng xóm đông đúc, tránh được những cặp mắt tò mò, vừa có đủ mọi tiện nghi. Ở ngoài mé nước, những tảng đá bằng phẳng, nằm mấp mô trên mặt sóng như những lưng rùa, cục nhỏ cục to, như đang mời mọc khách hành quá bộ bước sang. Đâu còn chỗ nào tốt hơn nữa. Không lẽ mỗi sáng sớm, lại cong lưng chạy tuốt lên đỉnh núi,… sao kịp!
Cho nên tìm được chỗ gần mà tốt nầy, cả đảo ai cũng vui mừng nhưng cũng có một số không vui. Đó là mấy người chủ lều lân cận và mấy tay đi ngủ nhờ, như tôi. Vui làm sao nổi. Gió đâu có thổi từ đất liền ra biển mà lúc nào cũng nhè từ ngoài biển thổi ngược vô. Cái đó mới là vấn đề. Đồng ý là gió biển, tuy có mát mẻ nhưng không được thơm tho cho lắm. Đó là nói về sự chịu đựng của cái lỗ mũi, còn nói về khổ sở của cặp mắt, thì quả thật, cảnh tượng, nói chung không được thẩm mỹ chút nào… Nhưng tôi đâu có thèm ngó tới ngó lui, mấy cái cảnh xấu xí đó làm gì, tuy vậy hai lỗ tai cứ bắt buộc phải nghe cái giọng chói lói của anh bạn hàng xóm, mỗi sáng cất lên như một điệp khúc, nhắc đi nhắc lại hoài chỉ có bấy nhiêu… nghe mà bực mình:
– Ê, ê cha nội, đi tránh chỗ khác, bộ hết chỗ rồi hả, trước lều tôi như vầy mà anh ngồi tỉnh bơ, coi có được không ?
Cũng cái câu nầy, anh nói hàng trăm lần, hằng ngàn lần, tôi nghe hoài, thiếu điều muốn thuộc lòng. Lúc nào cũng bắt đầu như vầy – ê, ê cha nội, nếu là đàn ông, còn nếu là đàn bà thì có thay đổi chút ít – ê, ê, chị kia ! Nhưng dầu là đàn ông hay đàn bà hay con nít. câu kinh nhựt tụng đó đều chấm dứt bằng lời nhận xét, phê bình … -coi có được không?
Có lẽ câu nầy khá hiệu nghiệm nên anh ta lập đi lập lại hoài.
Nhưng sáng nay, anh hành xóm khó chịu gặp phải một thằng cha lỳ;
– Ê ép cái gì, anh nghĩ coi cả đảo không có một cái cầu, không đi đây thì đi đâu ?
Anh hàng xóm tức mình:
– Đi đâu thì kệ anh chớ, tôi đâu có hưởn mà kiếm chỗ chỉ cho anh…Yêu cầu anh đi chỗ khác cho tôi nhờ !
Câu nói tuôn ra đầy bực tức gận dỗi nhưng hình như cục diện vẫn trơ ra, không có gì thay đổi, nên anh chủ lều bực quá, buông thỏng một câu:
– Vậy mà cũng đòi làm… dân Mỹ !
Tôi nghe qua, kêu trời một tiếng, bật cười to, tỉnh ngủ hẵn, định lay Trung dậy. Nhè đâu Trung cũng đã thức tự nãy giờ, nằm cười hăng hắc.
Tôi chọc Trung:
– Hình như chú Út xin đi Mỹ phải không ? Cũng may tôi chọn Canada, khỏi bị thằng cha chủ nhà nói xỏ nói xiêng ! Ai xin đi Mỹ thì rán chịu…
Hai anh em nằm cười cho đã một hồi rồi lồm cồm ngồi dậy, kiếm tờ báo vụn …rủ nhau làm cái việc mà thằng cha chủ lều vừa chửi. Nhưng tôi đâu có dại mà lựa chỗ gần nhà. Trời còn tối hù, tôi và Trung lò mò leo lên những bực đá cao hơn, xuyên qua một đám cây thấp mọc cỡ ngang đầu, rồi tới một đám trúc nhỏ xíu, rồi leo ra tận mõm đá cheo leo. Tới đây là…tận cùng trái đất! Biển ở tuốt xa dưới kia, ngó xuống chóng mặt. Tôi chợt thấy ở ngoài khơi, sáng nay có thêm một chiếc tàu lạ, to lớn sừng sững trắng toát, tới đây hồi nào, tôi không hay biết, đậu im lìm. Ngó kỹ hơn, tôi thấy trên ống khói cao chót vót, lá cờ Pháp ba màu xanh trắng đỏ được kéo cao, bay phần phật trong gió sớm.
Tôi chỉ cho Trung:
– Tàu bịnh viện Ile de Lumière tới rồi nè Trung ơi ! Mấy ngày trước trên loa phóng thanh có nhắc tới, Bidong mình sẽ có một tàu bịnh viện của Pháp tới… chắc nó rồi.
Trung đứng ngó chiếc tàu, nói:
– Lớn quá sức, chắc là máy móc tối tân lắm. Từ bên Tây mà qua thẳng tới đây một mạch, ngon lành. Có nó tới, người tỵ nạn mình cũng đỡ khổ. Ở đảo, nhiều người bịnh nặng, phải mổ xẻ hay sanh nở khó khăn, phải chờ đưa qua Trengganu thiệt là vất vả. Chiếc tàu lớn quá, đã thiệt. Thấy nó, đâm muốn bịnh để được xuống dưới coi chơi cho biết !
Tôi vừa tìm chỗ tốt, vừa lẩm bẩm:
– Thiệt tình hết chuyện muốn, lại muốn bịnh, tôi không ham rồi đa !
Trung ngồi cách tôi chừng năm thước xa, hai anh em đối đáp om sòm không sợ ai nghe thấy. Mỏm đá cheo leo, ngó xuống biển sâu hun hút. Nơi đây xa quá, lại khó leo trèo nên ít người lui tới, cách biệt hàng xóm dưới kia một góc trời. Tôi ngồi thoải mái, yên chí ngắm chiếc tàu lạ …
°
Tiếng loa phóng thanh đưa xa văng vẳng… ‘Yêu cầu quí vị trưởng trại và trưởng các khối ra tiếp phái đoàn của tàu bịnh viện Pháp mới đến..’ Trung nghe xong, nói vọng qua tôi:
– Giờ nầy còn sớm quá, chắc quí vị trách nhiệm của trại còn đang ngồi thơ thẩn ở một tảng đá chênh vênh nào đó, cũng có thể đang chờ để xách nước giếng không chừng….
Tôi ngồi ở trên cao nhìn xuống, cảnh như trong tranh vẽ, những lớp sóng nhỏ đều đặn, lăn tăn như vảy cá. Nước xanh thăm thẳm. Chiếc tàu sơn màu trắng tinh, lớn như toà lâu đài nên phải đậu xa bờ chừng ba trăm thước. Cây cầy supply chỉ dành riêng cho các ghe nhỏ. Nhìn lá cờ lớn phất phới trên vùng trời Bidong, lòng tôi cảm động, sung sướng rạt rào. Người tỵ nạn Việt Nam không còn cô đơn. Trên thế giới đã có biết bao nhiêu cõi lòng nhơn ái mở rộng, đã có biết bao quốc gia đón chờ, đã có biết bao người hy sinh cả công lẫn của… như chiếc Ile de Lumière nầy !
Ở trên đảo, dưới những tàn dừa cao chót vót, người ta tụ tập ra bờ cát càng lúc càng đông. Tin chiếc tàu bịnh viện đến đảo là một niềm vui lớn. Cả đảo thức dậy trong nỗi hân hoan. Từ hội trường đến chưn cầu supply, chỗ nào cũng người là người. Tuy ở rất xa, nhưng hình như tôi nghe được trong đám đông xôn xao, chuyển động đó, tiếng rộn ràng của niềm tin yêu, hy vọng, chứa chan. Tiếng loa kêu gọi quí vị điều hành trại ra đón khách vẫn còn tiếp tục vang vang.
Đây rồi, trong trại đã dùng chiếc ca nô cảnh sát Mã Lai trắng, sơn chữ xanh quen thuộc, chở độ bốn người ăn mặc chỉnh tề, lướt sóng ào ào chạy thẳng ra tàu lớn. Lần đầu tiên ở đảo, tôi thấy có người mặc áo tay dài cài khuy, vạt bỏ trong quần, cổ thắt cà vạt đàng hoàng, thoạt trông thấy lạ hết sức nhưng có điều tôi không biết là quí vị đó mang giày hay mang dép? Nếu có chắc là dép cao su, vì nếu mang giày da cứng thì làm sao mà đi trên cát hoặc đứng trên ghe chông chênh?
Khi gần đến nơi, chiếc ca nô chậm bớt tốc lực, chạy từ từ cập vào hông tàu. Tự nhiên bên hông tàu cao vút như bức tường trắng toát, mở ra một cánh cửa rộng hoác. Một chiếc ca nô khá lớn, sơn màu vàng tươi mát từ bên trong tàu lớn chạy ra. Ngộ quá, ngộ quá ! Lần đầu tiên tôi thấy cảnh nầy, kêu lên:
– Đã quá hả Trung, tàu lớn mà lại tối tân. Chiếc ca nô trong bụng nó chạy ra – y như tàu mẹ đẻ tàu con…
Trung cũng đang theo dõi mê mang. Trên ca nô khách, có tây đầm lố nhố cả chục người. Sao kỳ lạ vậy, mấy người Pháp ở trần trùi trụi mặc quần cụt, mấy cô đầm tuy có mặc áo nhưng ngắn lắm. Nhìn lướt qua hai ghe, thấy hai cảnh tương phản nhau. Một bên đâu có quần áo bao nhiêu, cũng rán kiếm mà bận vô, một bên có rất nhiều nhưng chừng như nóng quá, họ cởi ra gần hết. Cũng tại khí hậu xích đạo của đảo!
Cuộc gặp gỡ quá đơn giản, không có bắt tay, không có chào cờ, không có diễn văn khai mạc, không có cảnh ôm hôn thắm thiết…chỉ có khoác tay thay lời chào hỏi, rồi thôi. Ghe chủ dẫn đường đi trước, ghe khách theo sau về đảo. Trên ghe khách, ai cũng có máy quay phim, máy chụp hình, quay chụp liên hồi. Hai ghe đảo một vòng lớn để quành về. Ghe trước lướt nhanh vun vút, có lẽ vì thói quen nghề nghiệp của cảnh sát Mã chuyên rượt
bắt ghe buôn lậu nên lướt sóng rất khéo. Sau đuôi, bọt trắng xoá, vẽ một vòng tròn. Anh tài công nào đó chắc cố ý biểu diễn một màn lả lướt cho tài công Tây lé mắt chơi. Nào ngờ, ghe khách không theo ghe chủ, nó đi chầm chậm, cặp theo ghềnh đá… đúng y boong chỗ tôi và Trung đang ngồi thơ thẩn.
Trời đất quỉ thần ơi ! trên ghe có bao nhiêu máy quay phim, máy chụp hình, đều hướng về hai đứa chụp lia chụp liạ. Tụi nó chụp cái gì vậy ? Hổng lẻ chụp bụi tre hay cục đá kế bên! Chắc là lần đầu tiên tới Bidong gặp cảnh lạ, bên Tây làm gì có được cảnh ngộ như vậy. Tôi không biết xoay trở ra sao ngồi yên thì bị chụp nguyên con, mà đứng dậy thì cũng không được. Thiệt tình không được! Túng quá, tôi bèn hỏi Trung :
– Trung, Trung ! Tụi nó đang quay phim anh em mình kìa, phải làm sao ?
Trung phản ứng thiệt lẹ, nói to:
– Lấy giấy báo che mặt đi, đừng thèm che chỗ khác. Nó muốn chụp gì đó thì chụp, đem về bển, có ai biết anh đâu mà sợ!
Nghe lời Trung nói, tôi thấy cách giải quyết như vậy là ổn thoả, vội lấy tờ giấy đang cầm trên tay che lên mặt. Cạnh bên Trung vừa che vừa cười khúc khích. Tôi lẩm bẩm:
– Bị người ta chụp hình … vậy mà còn cười được ! Thiệt tình, tôi muốn độn thổ…
Chiếc ca nô đã đi xa. Tôi và Trung đứng dậy đi về. Trung vừa đi vừa nói:
– Mấy anh công dân Mỹ ngồi bậy hồi sáng cũng chưa ngon lành bằng tụi mình. Họ bất quá cũng chỉ có một hai chủ lều biết tới, còn anh với tôi thế nào cũng được cả thế giới chiêm ngưỡng…
– Trời, đừng nói giỡn chớ cha !
– Thì anh suy nghĩ đi, bộ mấy con đầm, mấy thằng tây đó quay phim rồi bỏ hả ? Thế nào nó cũng đem rửa ra, đem về bên Tây họp báo khoe là ở Bidong… như vầy, như vầy nè… rồi biết đâu không chừng in hình anh trong sách.
Tôi dậm chưn dậm cẳng, tức mình cằn nhằn:
– Sao mà xui xẻo, chắc tại ở gần thằng cha chủ lều vô duyên, tối ngày cứ trù ẻo hoài…làm sao mà khá được. ! Thôi, rán chạy lẹ về để coi cho rõ…
Chiếc ca nô đã cặp cầu supply, phái đoàn được hường dẫn vô đảo. Trên bãi cát trắng thường ngày bây giờ đã đen nghẹt, người là người, chật cứng không còn nhúc nhích được nữa. Bao nhiêu người ở bờ biển Bidong sáng ngày mười chín, tháng tư, năm bảy mươi chín nầy ? Có thể hai chục ngàn, ba chục ngàn hay nhiều hơn nữa! Cả một biển người, tạo thành những cơn sóng chuyển động, vẫy tay đón chào, vui mừng, tin tưởng. Họ đang chào đón những vị ân nhân đến từ phương trời xa thẳm. Những tiếng hoan hô vang dội, vui mừng, tin yêu, trên những gương mặt hốc hác, đen đúa nhưng rạng rỡ. Đảo hôm nay bị chìm ngập trong những đôi mắt mở lớn, những cánh tay vẫy chào, những tiếng kêu hy vọng…
Còn gì nữa. Còn những dòng lệ ấm áp chảy tràn lan trên má của mấy cô đầm. Tôi thấy mấy cô lấy khăn tay ra lau nước mắt. Rồi tới mấy ông tây quay phim, họ đang để máy xuống, tay tìm khăn… Tôi đứng ngây người ra cạnh gốc dừa, lòng xúc động tràn ngập. Những người ngoại quốc nầy là những ai ? Họ ở tận góc biển chưn trời nào? Có ai bắt buộc họ phải từ bỏ nếp sống đầy đủ, êm ái, từ bỏ gia đình cha mẹ, vợ con, công ăn việc làm… chấp nhận thiếu thốn, gian khổ, lặn lội qua vùng đất xa xôi, hẻo lánh nầy, để giúp đỡ chăm sóc cho những người không hề quen biết ? Yếu tố nào đã thúc đẩy cho họ hy sinh dấn bước ? Phải chăng đó là tiếng gọi thôi thúc từ trái tim nhân ái bao la của con người, xúc động trước nỗi đau thương cùng cực của con người. Trong tình thương, đâu có sự phân biệt màu da, tiếng nói, cũng đâu có sự ngăn cách địa phương… hay bất cứ điều gì. Tấm lòng của họ lớn lao như biển cả, trái tim của họ ngời ngời như ánh sáng. Nhơn loại sở dĩ còn tồn tại đến ngày hôm nay là nhờ những con người vĩ đại như vậy đó! Nếu không thì, trái đất nặng nề đầy tham dục nầy đã bể nát từ lâu rồi… từ lâu rồi !
°
Và cũng nhờ trái đất còn nguyên nên đảo Bidong cũng còn y nguyên. Mà tất cả không có gì thay đổi thì tôi phải cùng Trung chia tay nhau về nhà, để còn phụ khiêng nước với Tiến và Chiêu, công tác nầy không thể trốn lánh được! Tụi tôi là con trai đàn ông mà, không làm mấy việc năng nhọc như khiêng nước, đốn củi, sửa nhà …thì ai làm, không lẽ để đó cho đàn bà con gái, coi sao được! Các cô cũng đâu có ngồi không. Ngoài chuyện lo bếp núc, giặt giũ… còn phải lo chuyện nghe tin tức đầu làng cuối xóm, ai đi ai ở… Giờ nầy chắc mấy em đang chờ.
Nắng đã lên cao. sáng rỡ. chợ trời đã họp từ hồi nào. Hàng hoá được bày bán trên các sạp thừa mứa thấy mà mê. Tôi cầm cái thùng đựng nước bằng ny lông trắng cỡ hai mươi lít, trống không nên nhẹ hửng, vừa đi vừa ngó mấy gian hàng bán dép. Chút nữa, khi đem nước về xong xuôi, thế nào cũng chạy ra đây mua hai đôi dép mới được, loại dép Nhựt Bổn màu xanh đỏ lốm đốm, đế cao chừng ba bốn phân tây, mỗi đôi giá hai đồng rưỡi tiền Mã. Vợ chồng tôi giày dép đều đã rách nát. Đường đi trên đảo khi thì ẩm ướt bùn sình, khi thì cát nóng như nung, khắp nơi phân người vương vãi, không có đôi dép thì không được ! Đôi dép luôn luôn mang dính ở chưn, không lúc nào rời, trừ khi leo lên gác đi ngủ. Có nhiều buổi trời mưa lớn, nước ngập tràn lan, dép trôi lềnh bềnh dưới sàn, phải tìm lượm lại, máng cẩn thận lên gốc cây. Mất dép là tốn tiền… mà tiền ở đây, làm sao để kiếm cho ra ?
Từ sáng sớm tờ mờ, chiếc tàu tiếp tế kéo cả xà lan đầy nước ngọt từ bên Trengganu qua đậu lù lù ngoài cầu. Sau đó nước được bơm thẳng vô các bồn chứa, để dọc theo bờ cát. Bồn được làm bằng plastique dầy, hình tròn, cao cỡ ngang ngực, chứa chừng bốn thước khối nước. Có tất cả độ bốn mươi bồn. Mỗi đầu người được chia tám lít, cách mỗi ngày được phát một lần. Dân chúng sắp từng hàng dài để đợi, chen lấn giành giựt nhau để lãnh nước ngọt đem về dùng. Những dòng nước trong mát, ngọt ngào quí báu. Tới phiên, tôi đưa cái thùng không cho một thanh niên phụ trách, đứng bên cạnh bồn nước. Anh ta dùng một cái thùng sắt nhỏ múc đầy nước trong lành, rót vô miệng ‘can’ ny lông trắng. Dòng nước trong ngọt ngào long lanh nắng vàng chảy vô đều đặn, có vài tia nước nhỏ tạt ra ngoài, văng tung toá trên mặt cát trắng ẩm ướt. Rồi tới phiên Tiến, Chiêu… Có tới mấy chục thanh niên lo việc phân phối nước từ sớm tới chiều. Từng đoàn người lần lượt chờ đợi, xôn xao. Một hoạt cảnh rộn ràng.
Thùng nước trở nên nặng chình chịch. Tôi vừa xách, vừa thở, bước đi chập choạng, đôi dép lệt xệt kéo lê trên cát, thùng nước nặng trì một nên. Trong hàng rào kẽm gai của đồn cảnh sát Mã Lai, có cả chục chiếc ghe buôn lậu bị bắt quả tang, chất một đống ngổn ngang, đang chờ ngày đem đi đốt bỏ. Rải rác trên đường về, nhiều người khiên những thùng nước lớn. Chợ trời có bày bán loại thùng chứa nước cỡ bốn mươi hoặc sáu mươi lít, màu đỏ. Mua loại thùng lớn nầy phải làm gióng, hai người khiêng khá nặng nề dưới ánh nắng chang chang.
Ba anh em về tới nhà. Tiến lấy ra ba bao đựng đường bằng sợi ny lông dệt thưa, xong rồi lót bên trong một bao ny lông láng kín mít, để mở miệng. Tôi đỗ nước vô đầy bao. Nhìn ba bao nước đầy nhóc, căng tròn, tôi mừng lắm. Ở đây có được nước sạch để dành uống là điều sung sướng. Nước ngọt ở đảo hiếm hoi. Ngay cả nước dùng tắm rửa, giặt gỵa hằng ngày cũng khó kiếm lắm. Ở Bidong mà không có nước ngọt thì chết khát. Nước giếng không uống được vì chất vôi quá nhiều, vả lại giếng cũng đâu có nhiều. Giếng nào cũng cạn vì người đi lấy nước quá đông. Mỗi lần quăng thùng xuống nước, múc được một phần ba. Phải đợi thật khuya, người ta đi ngủ bớt thì mới mong có nước dễ dàng….
Tiến cột chặt mấy miệng bao xong xả, đứng dậy phủi tay dáng hả hê:
– Khoẻ rồi, đầy nhóc hết, tha hồ mà đi chơi!
Chiêu cũng cười sung sướng, tôi đề nghị:
– Anh em mình trở lại hội trường, coi phái đoàn y tế Pháp
Câu nói chưa dứt thì tiếng loa phóng thanh kêu đúng số ghe tôi lãnh thực phẩm, lại léo nhéo vang lên. Chiêu buột miệng:
– Ủa, mới lãnh xong dầu ăn, rồi xà bông, kem đánh răng, bột giặt, nhang un muỗi rồi mà
Tiến lục lọi trong đống hành lý, lấy ra một cái bao lớn, nói:
– Thôi đi cho rồi, nó phát cái gì lấy cái đó… Lãnh được càng nhiều càng tốt !
Ba anh em lại kéo nhau ra bãi cát trước kho tiếp liệu. Cửa kho đã mở, các đại diện từng ghe lần lượt vô trong để nhận hàng. Tới nay, số ghe ở đảo đã được tất cả là ba trăm năm chục chiếc. Mổi đợt phát hàng thường lệ, chỉ được năm mươi ghe mà thôi. Khi nào có hàng nhận vào thì phải lo phát ngay vì nếu để chậm sẽ không đủ chỗ chứa, để tràn ra ngoài, nắng mưa sẽ làm hư mục. Bãi cát hẹp, mấy ngàn người ở trần, đứng giữa nắng chang chang, chờ tới phiên để lãnh. Tôi len lỏi giữa đám đông, thấy Tô Tỷ đương cầm sổ ghi ghi chép chép. Mỗi lần đi lãnh thực phẩm, là một dịp để cho cả ghe gặp gỡ lại nhau, ít khi thiếu mặt nào, vì ai cũng lo theo dõi loa phóng thanh, bỏ qua không lãnh thì kể như mất. Mấy tuần trước cả trại được phát gạo, đường, muối, sữa, đậu xanh, tỏi, hành, đậu phọng, cá hộp, bột nước cam, nước tương, nước mấm, trứng gà, dầu ăn…
Kể từ tuần nầy, thực phẩm được phát theo khẩu phần. Mới thoáng thấy tôi, Tô Tỷ la lớn:
– Kỳ nầy mình được phát theo khẩu phần nghe, đỡ mất công chia chác lôi thôi.
Tôi đưa tay chào anh ta, nhớ lại mấy lần trước, mỗi khi phân phối gạo, đậu, đường…nói chung là những thứ khó chia cho đồng đều, thì trăm lần như một, cả bọn gây lộn nhau như đám mổ bò. Ưa gây nhứt là thằng Cẩu Chải, rồi tới A Tài, rồi tới mấy người đàn bà. Có lần, người nhiều ngươi ít sao đó, gây nhau om sòm, thiếu điều muốn đánh lộn.
– Tô Tỷ nè, một khẩu phần gồm có món gì ?
Tô Tỷ giải thích cho tôi:
– Mỗi gói cho mỗi đầu người, ăn trong ba ngày, trong nhà có mấy người thì phát mấy gói. Kỳ nầy phát mỗi người hai gói…vậy là ăn được trong một tuần ! Tôi nói:
– Sao kỳ vậy, hai gói thì tính sáu ngày chớ, nếu tính là một tuần thì ngày thứ bảy lấy gì mà ăn.?
Tô Tỷ cười:
– Thì phỏng chừng vậy mà… Nhưng nếu hàng từ bên Trengganu chở qua không kịp hoặc không đủ thì …mình cũng phải chịu vậy, chớ làm sao ! Dám lúc đó, một gói ăn… một tuần lắm à! Ăn đủ sống thôi chớ, bộ muốn ăn cho no sao ?
Chiêu cười ngất hỏi:
– Vậy cái gói được phát có thứ gì ở trỏng ?
Tô Tỷ cầm cuốn sổ lên, lật qua lật lại:
– Một gói có ba lon gạo, hai bao đường nhỏ, một bao muối, ba hộp cá, ba hộp đậu, ba hộp gà kho, ba gói trà hoặc cà phê, rồi hết !
Tôi tính một hơi rồi nói:
– Vậy bây giờ chỉ phát có mấy gói khẩu phần rồi dầu đâu mình chiên xào, không có đậu xanh làm giá, đậu phọng, kem đánh răng… rồi cũng không có trứng gà, cải bắp như mấy tuần trước?
Tô Tỷ trả lời:
– Cũng đâu có biết, cái nầy là tiêu chuẫn của Liên Hiệp Quốc cho mình… cho thêm cái gì thì có cái đó..mà không cho thì mình không có. Nhưng tôi nghĩ là phải có thêm….
Các bạn trong kho đã khiêng ra mấy thùng lớn chứa đầy những bao khẩu phần. Cả ghe ba trăm năm mươi hai người, được chia làm bảy tổ. Mỗi tổ có năm chục người. Anh tổ trưởng trách nhiệm việc phân phối cho đồng đều. Kỳ nầy thì yên chí. khỏi phải chia chác lôi thôi, gọn quá, cứ tính mỗi đầu người hai bao là được, các ghe ở gần cũng đã lãnh hàng ra xong. Hàng ngàn người, nói chuyện, chen lấn, giành nhau, gây náo động cả một góc trời. Nắng đã nóng như đổ lửa. Những thân người trần trụi, rám đen. Những người vượt biên một mình thì gọn lắm, chỉ nhận hai gói là xong. Còn những người đi đông cả gia đình năm bảy người thì cũng phải khiêng vác nặng nề. Tiến đã chuẫn bị trước một cái bao lớn. Vì anh em tôi quá đông, nên đựng đầy cả bao. Chiêu và tôi phải cầm thêm những bao lẻ. Vừa định về thì nghe có tiếng cự nự:
– Sao lại phát kỳ vậy, trong bao của tôi chỉ có hai hộp cá ?
Tôi quay lại, thấy chị thằng Cẩu Chải cầm cái bao đưa vô mặt Tô Tỷ. Tô Tỷ đứng đực mặt ra, không biết phải làm sao:
– Tôi đâu có biết…tôi đâu có biết. Coi lại cái bao có rách không ?
– Rách gì mà rách, còn nguyên nè ! Nị làm đại diện ghe đi lãnh hàng mà sao không ngó cho kỹ… Thiếu của tôi một hộp, nị làm sao đó thì làm, kiếm một hộp nữa đưa đây!
Trời nóng hừng hực, Tô Tỷ cực khổ cả buổi sáng, bây giờ còn bị cằn nhằn, anh ta đổ cộc:
– Chị nói tôi ngó không kỹ… vậy là chị nói tôi đui hả ? Tôi đui mà tôi làm đại diện cho chị, chị cũng đui luôn !
Nghe tới đó, tôi phát cười, vổ vai Tiến:
– Chết cha rồi, Tô Tỷ nói vậy thì tụi mình đui hết, nó đại diện cả ghe BL1648 chớ đâu phải đại diện một mình chị thằng Cẩu Chải….
Chị kia, phần bị mất hộp cá, phần bị chửi lại, xỉa xói:
– Ai đui không biết à, không đui mà sao trong gói ba hộp cá mà chỉ còn có hai, mà không thấy?
– Tôi lãnh trong kho cho cả ghe, đếm đủ bảy trăm lẻ bốn gói thôi chớ, bộ tôi rảnh lắm sao mà coi từng bao, mỗi bao mấy hộp cá, mấy hộp đậu, mấy gói đường!
Chị thằng Cẩu Chải đuối lý nhưng vẫn còn tức mình, quăng cái bao xuống đất, trước mặt Tô Tỷ:
– Nị nói nị đếm đủ mấy trăm bao hả. Vậy nị lấy cái bao nầy đi, đưa cái bao của nị cho tôi…
Tô Tỷ cứng họng, nói ngang
– Phát rồi thì thôi, không đổi ! Chị muốn đổi với ai thì đổi. Tôi không đổi…
Vừa nói, anh ta vừa nhìn qua cái bao bự Tiến đang vác ỳ ạch trên vai, ý như muốn nói
chị muốn đổi thì đổi với thằng cha đang vác cái bao kia kìa. Tôi thấy tình trạng coi không mấy khả quan, kéo Tiến và Chiêu thoát lẹ ra khỏi vòng chiến. Ba anh em vừa đi vừa cười. Tôi đi cà nhắc vì chiếc dép đứt một bên quai. Bãi cát nóng như muốn phỏng chưn. Buổi trưa nắng nhiều nhưng gió ít. Những tàu dừa rủ xuống, im lìm như sắp héo tới nơi. Đám người đi lãnh thực phẩm từ từ tan biến trong đám đông rộn rịp, ồn ào. Thấy Tiến có vẻ mệt đi chậm chạp, tôi giành lấy cái bao vác lên vai. Ở phía ngược chiều, từ xa đi lại, hai người Pháp ở trần, da đỏ như da gà tây, đang đi với một người Việt. Cả ba vừa đi vừa nói chuyện. Chắc là vài nhân viên của tàu bịnh viện đi thăm chợ trời. Hai người da trắng nầy thấp người, không cao lớn như người Mỹ, tay cầm máy ảnh, cổ choàng một cái khăn lông, mồ hôi rịn đầy mặt…. Nắng Bidong buổi trưa nung mọi vật tan thành nước, phải rồi, da họ đỏ ửng như da gà tây… Đã vậy còn đi chưn trần.
– Tiến, Tiến, hai người nầy họ đi chưn không, làm sao chịu nổi !
Tiến và Chiêu cũng đang lom lom nhìn mấy bàn chưn để trần không giày không vớ, bụi đất Bidong đã vấy lấm lem. Không biết làm sao họ chịu đựng được những quảng đường đầy cát nóng như rang, rồi gai góc, đá sỏi, rác rến…
Chiêu nói: -Chắc da Tây dầy hơn da Việt Nam mình. Anh coi kìa, nó đi bình thường, đâu có đau đớn gì !
Mấy người Pháp đã đi khuất. Tôi kể cho Chiêu và Tiến nghe câu chuyện buổi sáng bị chụp hình trên ghềnh đá, rồi kết luận:
– Biết đâu trong máy chụp hình của hai người đó có hình của anh với Út Trung !
Nghe xong, Chiêu và Tiến xúm nhau mà cười, bình luận vang rân trên con đường hẻm đầy bóng nắng lỗ chỗ. Ở nhà chắc Duyên đang đợi buổi cơm trưa. Thức ăn sẽ có cá mòi hộp, hột gà …như thường lệ. Cá mòi Mã Lai lõng bõng những nước, thịt lại xác xơ. Nhưng đâu có gì quan trọng. Tô Tỷ đã nói rồi mà -ăn đủ sống thôi chớ, bộ muốn ăn cho ngon sao ! Phải rồi, ở đảo Bidong chỉ cần ăn cho đủ sống và một niềm tin tưởng ở ngày mai ! Tôi quay qua nói với Tiến:
– Tiến nè, em thấy không, anh tây nào mà nghĩ được ra cái tên Ile de Lumière để đặt cho con tàu bịnh viện, thật là tuyệt vời. Muốn sống trọn vẹn với đầy đủ ý nghiã một con người, đâu phải chỉ cần có thực phẩm với thuốc men… mà còn có những thứ khác quan trọng hơn.
Tiến gật gù:
…như là ánh sáng, như là tình yêu, như là tự do… Đúng, anh nói đúng, cái tên con tàu hay quá sức!
Chương 21
TÀU BỊNH VIỆN ĐẢO ÁNH SÁNG (Phần 2)
Ở một cái đảo hoang như đảo Bidong, nhắc đến việc đổ rác, nghe mà thấy cười. Ai nấy cũng tưởng chuyện nầy chỉ có ở những thành phố văn minh, chớ ở đây rừng núi, biển cả mênh mông đó tha hồ mà quăng, ai hơi đâu cấm cản. Chỗ nào lại quăng không được. Vả lại phần đông người tỵ nạn khi đến đảo chỉ còn hai bàn tay trắng, quần áo chỉ một bộ, làm gì có rác để quăng tới quăng lui… cho vui! Nhưng chuyện đời, dầu là chuyện đơn giăn nhứt như chuyện rác rến, cũng không đơn giản chút nào. Đảo Bidong thiệt tình quá nhỏ, đất đai gì tìm mòn con mắt để dựng một cái lều cũng không còn, phải leo tuốt lên sườn núi, nói chi đến khoảng đất trống dành riêng cho việc đổ rác…
Ban đầu các thanh niên tình nguyện của khối vệ sinh lần lượt đào mười mấy cái hố rác trên bãi cát, dọc theo bờ nước, mỗi hố lớn bằng cái nhà, vuông vức ngó mà phát mê. Bao nhiêu rác rến đều được gom lại tống hết vô đó. Nào giấy vụn, bao ny lông, hộp lon cá mòi, xác chuột, phân người… tha hồ mà quăng. Mà ngộ lắm, chỗ nào có rác thì chỗ đó có ruồi. Hai vật nầy như hình với bóng chặt không đứt, bức không rời. Những con ruồi to đen lớn, bằng con ong bầu đậu đầy trên mặt rác, lốm đốm như mâm xôi đậu. Ruồi ở đảo nhiều cho đến nỗi, mỗi lần rót nước để uống, cả chủ lẫn khách đều phải lấy tay che kín miệng ly, nếu không, sẽ có một con chun vô. Ly là hộp lon Coca được cắt rồi chà cho bằng mặt. Trại có phát cho nhang un muỗi nhưng thiệt ra dùng để un ruồi. Cũng như ở đảo, ngủ phải có mùng. Mùng dùng để ngăn ruồi bay đậu trên đầu trên mặt… Muỗi cũng có nhưng chỉ ở những vùng khuất gió, những nơi sát bờ biển gió lộng tư bề thì rất ít không đáng kể.
Thiệt ra thì mỗi người tỵ nạn sản xuất đâu có được bao nhiêu rác nhưng có điều số lượng người chen chúc quá đông nên số rác trở nên khủng khiếp. Mấy hố rác vừa đào xong ngày hôm trước thì ngày sau đã thấy hơi đầy đầy… đến vài ngày sau nữa thì bắt đầu tràn ngập, vun cao và có mòi tràn ra ngoài. Ban vệ sinh phải è ạch đào ngay một hố cạnh bên, lấy cát của hố mới, đắp lên hố cũ… và cứ như vậy mà tiếp tục. Nhưng điều đáng lo là diện tích của bãi cát còn lại cũng chỉ có bấy nhiêu, đâu có rộng ra thêm chút nào. Đào xới hoài cũng có ngày hết chỗ, mà đã hết chỗ rồi thì phải làm sao, không lẽ đào lại những hố cũ. Thiệt là nhức cái đầu!
Ban quản trại bèn nghĩ ra cách ổn thỏa nhứt là quăng hết rác xuống biển. Biển cả thì mênh mông vô cùng tận, tha hồ mà quăng. Rác nhiều bao nhiêu cũng không sợ. Ruồi thì càng không lo. Người ta bèn làm ra những bè cây thiệt lớn, dừng vách bốn bên để chứa những núi rác khổng lồ, cho ghe kéo tận ra ngoài xa, rất xa, rồi đổ ùn hết xuống biển. Thiệt gọn hết sức! Nước biển mặn đắng sẽ giết hết trứng ruồi, tẩy rửa sạch những dơ bẩn… rồi tất cả mọi vật sẽ tan biến trong lòng đại dương. Chương trình thực hiện được đâu vào ngày hôm trước, cả trại yên tâm ngủ ngon được một đêm. Nào ngờ, sáng hôm sau, số rác rến vừa được tống khứ ra khơi, tất cả đều lần lượt được sóng gió đưa trở về, nằm sắp lớp khoe mình trên bãi cát trắng, một số nhấp nhô trên mặt nuớc… ngó thấy mà ứa gan! Làm sao bây giờ! Thôi, đành kiếm chỗ… đào tiếp, nếu cần thì cũng phải đào trên đỉnh cao!
Nhưng dầu gì đi nữa thì vấn đề rác rến cũng còn có cách để trị, tuy chưa nghĩ ra. Ở Bidong nầy còn có một thứ khổ hơn rác vì khi nhắc tới nó, ai cũng lắc đầu chịu thua, vì hết phương cạy gỡ. Đó là khói nấu nướng của cả chục ngàn cái bếp trên đảo bốc lên, tỏa ra, lan trong gió mờ mịt, bay lên cao lưng chừng trời, rồi không tan hết được, trở xuống bay là là trên những nóc lều, trộn lẫn trong không khí, tạo nên một đám mây màu xám tro đục ngầu.
Từ ngoài khơi nhìn vô đảo, nơi khu vực cư trú, dưới những thân dừa suông đuột, người ta thấy cả một vùng khói trắng xám, phủ khắp chưn núi xanh, vướng vít trên những nóc lều san sát, tạo nên một bầu trời mờ mịt như một đóng un lớn. Cứ tưởng chừng trong giây lát gió biển từ ngoài khơi thổi vô, khói sẽ tan biến trên đầu núi. Nhưng không, đám khói mù ấy bao trùm lấy Bidong, từ sớm mơi tới chiều tối, từ ngày nầy qua ngày kia, không bao giờ dứt. Cũng có thể đám khói mù ấy sẽ bay mất trong một khoảng thời gian ngắn vào lúc nửa đêm khi mọi người đều yên giấc, không còn ai nấu bếp nữa… rồi lại xuất hiện vào lúc tang tảng sáng hôm sau.
Không khí của đảo bị ô nhiễm nặng nề, đủ thứ mùi hôi nhưng khói bếp là nguy hại nhứt. Trên núi có một loại cây gì không biết, sớ gỗ màu đỏ rất cứng. Mỗi lần đóng đinh để dựng cột hay làm mặt sàn rất khó khăn. Đinh bị cong vẹo không biết bao nhiêu lần mới đóng được một cây. Nếu lấy nó làm củi đốt thì lại nhiều khói. Ở lều tôi, bếp được đắp bằng đất sét trộn lẫn với các hộp lon cá mòi tròn, cạnh bên hông lều, hẹp té. Củi mua lại của một anh bạn ở trước mặt, sắp được đi Úc nên bán lại, phần lớn phơi chưa khô, đốt rất khó cháy, khói um cả lều. Cả ngày khói mù như vậy, ai nấy đều ho sặc sụa. Hai lá phổi chắc đóng đầy khói bếp. Khi nấu nướng phải đứng canh chừng, quạt lửa luôn tay, cho tới khi đồ ăn chín. Ngưng quạt là bếp tắt nửa chừng, khói bốc lên mù mịt, khổ sở trăm bề. Nhưng không lẽ không nấu… Đúng là cái vòng lẩn quẩn! Ai cũng sợ khói nhưng ai cũng phải bằng mọi cách… đi kiếm củi, để đốt cho có.. khói!
°
Thường thường cứ sáng Chủ nhựt thì hẹn nhau đi đốn củi trên núi. Buổi đầu tiên tôi đi với Sơn, vì ở lều Sơn, anh Hiền và mấy đứa em có được hai cây cưa. Đi lên núi đốn củi chỉ cần cây cưa là đủ. Anh Hiền vì ở đây đã lâu nên đi trước dẫn đường. Cả đám đi hàng một len lỏi qua các con đường hẽm quanh co, bên những chiếc lều san sát như trong ổ chuột. Đường lên dốc từ từ. Càng lên dốc cao lều càng thưa dần, tầm mắt thấy rộng hơn. Khu định cư chỉ còn một lõm nhỏ ở dưới kia, tai tôi nghe văng vẳng tiếng loa phóng thanh khi mờ khi tỏ. Đường lên núi, càng lúc càng dốc. Mồ hôi đã tươm ra đầy mặt đầy lưng. Hơi thở bắt đầu gấp rút, phì phò. Nắng chói lọi tỏa hơi nóng gay gắt. Sơn đi cạnh bên, hỏi tôi:
– Mệt không?
– Ừ, coi bộ mệt dữ rồi, gần tới chưa?
Sơn cười:
– Đi núi là không được nói mệt nghen, phải nói là khỏe lắm… khỏe lắm….
Tôi vừa nói, vừa thở hổn hển:
– Leo dốc dựng đứng như vầy, khỏe gì nổi, thở không ra hơi nè!
Hai bên đường mòn có dấu vết rừng bị cháy rụi, còn trơ ra những thân cây trơ chìa, nám đen, dưới đất tro than đen xám vương vãi. Cạnh đó một vùng cây bị đốn, dấu cưa sát gốc. Đường đi trở nên ngoằn ngoèo, phải nhảy trên nhiều tảng đá cheo leo. Cây vụn bị chặt bỏ ngổn ngang, bừa bãi. Chợt nhìn thấy một cây vừa tầm nằm dọc theo đường đi, tôi nói với Sơn:
– A, có một cái cây tốt quá, mình cưa khúc đem về, khỏi phải tìm kiếm mất công.
Anh Hiền cản lại:
– Đừng thèm lấy, nó không dùng được việc gì nên người ta bỏ lại đó.
Tôi ngạc nhiên:
– Tại sao vậy?
– Muốn lấy cây làm củi chụm phải lựa cây nào suông thẳng, sớ cây thưa, mới dễ bửa nhỏ ra mà chụm được. Còn cây nầy cong vẹo mà lại có nhiều mắt to, làm sao anh lấy búa bửa ra cho nổi…
Ở đây chỉ có cây và đá. Những tảng đá thật lớn sừng sững bên vách núi. Cây mọc chen nhau chật cứng, vươn tàn lá lên cao để giành hứng ánh nắng mặt trời. Ở gữa các nhánh có những cây ráng mọc chen, lá xanh um, dáng như gạc nai. Đôi khi cũng có những cây phong lan đong đưa trong gió. Có lẽ rừng núi đầy người phá phách nên không thấy một bóng chim bay, cũng không thấy một con thú rừng như thỏ, như sóc… Cả bọn leo dốc từ từ lên cao nữa, quẹo trái rồi quẹo phải. Tôi thấy một đám cây mọc đều đặn, cây nào cây nấy nhỏ bằng cây cau suông đuột. Có lẽ nơi đây chăng? Đúng rồi, anh Hiền dừng bước, miệng nói:
– Nghỉ mệt một chút cho khỏe… rồi mình lựa cây.
Đứng ở vị trí nầy khá cao, tôi đưa mắt nhìn quanh. Bên kia là một thung lũng thấp, cây cối thấp hơn nhưng cũng đang bị đốn phá nhiều hơn. Có những quảng trống thưa thớt. Xung quanh đây đó, đầy những người di động ồn ào. Tiếng cây bị cưa, ngã đổ ầm ầm vang dội rền đi từ vách núi. Tiếng người nói chuyện líu lo, ồm ồm… Sơn nói:
– Hủ Tiếu và đám bộ hạ đang đốn cây ở dưới kia kìa…
Tôi rán mà nhìn, thấy Hủ Tiếu đương đứng với một đám đông, chắc là mấy đứa con rể A Son, A Tài… Tiếng cưa, tiếng búa, tiếng nói chuyện cười giỡn vang dội cả khu rừng vắng. Có ai mà ngờ được, nơi đỉnh núi hoang, giữa biển vắng nầy lại có lúc ồn ào náo nhiệt như ở giữa chợ, thiên nhiên đắm mình trong giấc ngủ triền miên ngàn năm, cũng phải giựt mình thảng thốt với sự tấn công xâm lấn của con người. Mới có một thời gian ngắn chừng bảy tám tháng, kể từ ngày trại tỵ nạn Bidong được thành lập, đỉnh núi đất đầy cây rậm rạp lần lần bị cưa, bị đốn, một ngày một nhiều… như một cái đầu bị rụng tóc, sói sọi. Hiện tại thì bị một lõm to ở giữa và một đường cong queo dài ngoằn từ dưới chân lên tới đỉnh với những vết loang rộng… nếu mà tình trạng nầy kéo dài thì rừng núi Bidong, sẽ không còn là chỗ trú ngụ của chim chóc, của thú rừng, cây cối sẽ bị đốn mất hết, chỉ còn những tảng đá trơ lỳ với tháng năm…
Anh Hiền đứng ngắm nghía chọn lựa rồi chỉ một cây, Sơn và thằng Tí bắt đầu cưa. Thịt cây còn tươi rói nên lưỡi cưa ăn vô ngọt xớt, mạt cưa văng ra trắng gốc. Hiền nói:
– Phải cưa mở miệng nghiêng xéo một bên, để khi cây ngã theo ý mình muốn. Nếu không để ý thì nguy hiểm lắm, nó đè chạy không kịp…
Rồi Hiền giải thích thêm cho tôi nghe:
– Điều đáng sợ nhứt là đa số không phải là thợ rừng nên không biết cách cưa cây cho ngã theo ý muốn. Có nhiều trường hợp cưa xong, bị cây ngã đè bị thương hay là chết. Cũng có khi cây mọc dầy đặc, cưa xong một cây, xô hoài nó không ngã vì ở trên ngọn, cành lá chằng chịt vướng víu nhau. Không biết làm sao được, người ta đành bỏ đi cưa cây khác. Vài ngày sau cây khô trơ cành ra, gió thổi lắc lư. Vô phước cho anh nào đi lớ ngớ tới, cây ngã đè thì khó tránh khỏi nguy hiểm… Muốn biết cây nào đã bị cưa thì cứ ngó lên đọt, thấy lá héo vàng thì phải liệu mà tránh cho xa…
Tôi ngó một vòng, quên mất mình đang kiếm củi, nhìn xuống thung lũng tươi xanh rậm rì, cây đá chen nhau, máu sắc hình khối lẫn lộn như một bức tranh thiên nhiên kỳ thú. Nhìn quay ra biển, thấy biển ở tuốt dưới xa, phong cảnh mờ ảo. Cây cối ở phía dưới chưn núi như nhỏ quắt lại, sóng biển lăn tăn nhỏ xíu, vài chiếc thuyền con lênh đênh như trong mặt hồ, cảnh vật một màu xanh mướt. Mây từng dải mờ nhạt như khói, như sương bay lững lờ dưới chưn núi như tấm lụa mỏng nõn nà… cảnh giống y như những bức tranh phong thủy của Tàu, đẹp tuyệt vời. Không khí trên cao im mát… Tôi rán tìm mặt trời để định hướng. Bây giờ nó đã lên cao ở gần đỉnh núi, chói lòa. Anh Hiền thấy tôi quay qua quay lại hỏi:
– Anh muốn kiếm cái gì vậy?
– Tôi muốn coi Việt Nam mình ở về hướng nào?
Anh Hiền chỉ ngược về hướng rừng sâu. Có thấy gì đâu, ở đó có chỉ có cây cối chằng chịt. Tôi ngước mắt nhìn lên phía trên xa thấy vài đám mây bay lãng đãng… Cả bầu trời xanh trong, rải rác từng cụm mây di chuyển chầm chậm. Hướng nào cũng đầy bóng mây… Bốn phương mây trắng một màu, trong vời cố quận biết đâu là nhà…
Ngó tới ngó lui, tôi trực thấy một thân cây dài ai đã cưa sẵn sát gốc, bỏ nằm cạnh một bụi rậm. Cây bị cháy xám đen ngoài vỏ nhưng bên trong ruột cây còn nguyên, sớ thẳng và trắng. Đúng là một khúc cây lý tưởng. Tôi lấy cưa, cưa một đọan dài cở chừng ba thước, không nặng quá để còn đủ sức mà vác trên đoạn đường xa. Cái cây tốt như vậy mà bị bỏ lại đây có lẽ vì nguời ta sợ bị dính than đen lem luốc, khi vác về ngang chợ. Khúc cây được cắt xong, tôi lấy tay khiêng lên coi thử nặng nhẹ. Thiệt là vừa hết sức, định vác luôn. Anh Hiền cản:
– Khoan đã, cả tuần mới đi núi một lần, ở chơi lâu lâu rồi hảy về!
Sơn đề nghị:
– Có ai muốn đi… vô bụi với tôi không?
Thấy mọi người còn đứng yên, Sơn nói tiếp:
– Đi đốn củi trên đỉnh núi, khoái nhứt là cái vụ nầy! Thứ nhứt quận công, thứ nhì… đồng!
Chưa kịp rủ đến lần thứ hai, ai nấy nghe bùi tai đều lần lượt kiếm chỗ tốt. Trời đất mênh mông, tha hồ mà thơ thẩn!
Cả bọn sắp xếp đi xuống núi. Cũng anh Hiền đi trước dẫn đường. Trên vai mỗi người bây giờ là khúc một cây dài đong đưa. Tí nhỏ nhứt trong đám mà lại vác một khúc cây lớn khá nặng, cái lưng nó oằn xuống. Trên đầu cây của Hiền và Sơn còn có treo lủng lẳng cây cưa. Tôi đi sau chót. Vừa ra khỏi một khúc quanh tôi nhìn thấy một dốc lài thoai thoải, phía dưới là bãi cát trắng phau. Nhìn về phía trước, đoạn đường quá dài, lại loanh quanh trắc trở, phải vượt qua những bực đá cheo leo, khúc cây đang vác mỗi lúc càng trở nên nặng hơn… Tôi bèn quyết định đổi hướng, quyết vạch một con đường mới đi thẳng xuống bãi, rồi sau đó, tìm cách trở về. đảo Bidong nhỏ xíu, làm sao mà lạc được…
Các bạn đi trước lo vác cây lầm lũi đi, có biết đâu tôi tự ý sửa đổi lộ trình. Tôi ngắm hướng một hồi rồi đứng trên cao dùng hết sức quăng khúc gỗ xuống dưới thấp. Khúc cây theo đà quăng, tung ra xa rớt xuống phía dưới cỏ, rồi trớn lăn còn mạnh nó tiếp tục rơi xuống, đập vào gốc cây nầy, bá vào bụi cây kia, vài ba bận rồi mới chịu nằm yên. Tôi khoái chí lò dò leo xuống theo. Hướng nầy ít cây mọc, cỏ dầy ngang ống chưn nên xuống khá dễ dàng. Tôi lại tiếp tục quăng cây xuống thấp. Có nhiều bận nó vướng vào bụi rậm, phải len lỏi vào, vác ra nơi quang đãng rồi quăng xuống tiếp. Trên đường dốc tôi gặp hai con suối cạn, dòng nước nhỏ xíu chảy lờ đờ lẫn trong đám cỏ xanh um tùm, có dấu vết người ta đến tắm rửa, giặt giũ, bọt xà bông trắng đầy, vương vải hai bên bờ. Nhờ có con suối, cây cối chỗ nầy mọc chằng chịt. Cuối cùng rổi thì tôi cũng xuống tới chưn núi. Khỏe quá, đoạn đường được rút ngắn mà lại khỏi phải khiêng vác lôi thôi. Tôi đứng vịn khúc cây cháy đen, nhớ tới anh Hiền mà thấy cười. Tại sao lại phải về theo lối cũ, tại sao cứ phải theo lối cũ, chi cho cực khổ vậy!
Bãi cát chỗ nầy trắng xóa, không một dấu chưn người. Vạn vật còn y nguyên đấu vết hoang sơ. Năm ba thân cây mục rữa nằm trơ vơ giữa trời đất vô tình. Kế đó là những bụi dứa dại xen lẫn với những gốc dừa… Toàn cảnh hoang vắng đến ghê rợn, không một cánh bườm, không một bóng chim, không một dáng người, không còn tiếng loa phóng thanh, không một túp lều nhỏ. Chỉ có cây đá, mây nuớc… và tôi… với khúc cây cháy đen!
Tôi bèn ngắm hướng một hồi rồi vác khúc cây lên vai, đi dọc theo bãi cát. Như vầy thì thế nào cũng về tới trại. Cứ vòng theo bãi cát. Đi một đọan ngắn, lối đi bị vách đá chớn chở chắn ngang, nhìn về hướng cũ, phía bên kia cũng vậy. Bãi cát chỉ có một lõm ở giữa mà thôi! Chết rồi, làm sao mà về, tôi đi lạc quá xa. Không ngờ Bidong cũng lớn quá. Vậy mà lúc đứng trên đỉnh núi nhìn xuống, nó có chút xíu!
Tôi vừa đứng, vừa thở vừa lo. Nắng cháy trên đầu, nắng nóng dưới chưn. Tay chưn trầy trụa xơ xác vì khúc cây nặng. Hướng nào để trở về? Bây giờ thì tôi không còn định hướng được nữa. Rõ ràng hồi sáng đi lên, đốn củi xong thì đi xuống, tại sao lại lạc kỳ cục vầy nè? Phải làm sao bây giờ, chỉ có cách là leo trở lên đỉnh núi, trở về chỗ cũ, rồi tìm đường về trại. Nhưng đâu phải là chuyện dễ. Leo dốc núi một mình giữa trưa đứng bóng là một chuyện rất vất vả, khó khăn. Bụng đói cồn cào, cổ lại khát khô. Vả lại còn có khúc cây dài tới ba thước, nặng chình chịch, vác nó mà leo trở lại chỗ cũ thí chắc có nước chết. Hay là bỏ quách nó lại ở đây, ra về tay không? Tôi suy đi tính lại, nếu ra về tay không thì mấy đứa em ở nhà cười cho thúi đầu. Mang tiếng là đi kiếm củi mà không có một cây, thì coi sao được. Hơn nữa trước khi đi đã dặn Tiến ở nhà lo mượn búa để có sẵn mà bửa củi ngay chiều nay. Tôi tưởng tuợng ra cảnh trở về tay không, mặt mày bơ ngơ báo ngáo, mấy đứa em xúm lại mà chọc, đâm phát rầu! Không được, không cách gì mà về tay không, thôi phải rán vác vậy. Tôi đau khổ mà vác khúc củi cháy trở lại lên vai, lần mò leo trở lại chỗ cũ. Khúc cây giờ nầy nặng hơn đá, vướng víu bực mình. Mỗi bước đi mồ hôi tuôn ra như tắm, tóc tai ướt mem… Đã thấy lại con suối cạn.. rồi tới con suối thứ hai. Không biết tôi phải ngừng lại để thở bao nhiêu lần, cuối cùng rồi cũng trở về được chỗ cũ. Mừng quá, đã về đúng được chỗ cũ. Tôi bỏ khúc cây nằm lăn bên đường mòn, ngồi bệt xuống đất mà thở. Chờ cho hết mệt, tôi vác khúc cây đến một ngã ba. Có lẽ phải quẹo trái? Nhưng muốn cho chắc khỏi bị lạc nữa, tôi hỏi thăm một người đang cưa cây. Anh ta chỉ đường xong rồi hỏi:
– Anh ở đây lâu mà sao còn bị lạc?
Tôi ngạc nhiên:
– Tôi mới đến Bidong chưa đầy một tuần, tại sao anh lại nói tôi ở lâu?
Anh bạn đó cười ha hả trả lời liền:
– Tại anh đen thui giống Mã Lai!
Tôi cũng bật cười, cám ơn rồi vác khúc củi đi. Nhớ lại là cả tháng trời ở đảo Pulau Kapas, tắm biển phơi nắng suốt ngày, qua Bidong râu tóc lại không cạo gọt, một phần nửa khúc cây quỷ dịch nầy cháy đen hòa với mồ hôi bết đầy người lem luốc, vậy mà phải ôm vác từ sớm mơi tới giờ. Thây kệ nó ở nơi khỉ ho cò gáy nầy, xấu đẹp cũng đâu có ai để ý tới. Mới có một tháng trời mà thay đổi quá nhanh…
Tôi trở về đúng con đường cũ, đường xuống dốc dễ đi hơn. Khúc cây đè nặng theo nhịp đi, lâu lâu tôi phải ngừng lại để đổi vai. Cũng may khúc cây dài chỉ có ba thước, phải nó to hay lớn hơn chút nữa thì không biết phải làm sao. Dần dần trên con đường mòn tôi gặp lũ lượt từng toán năm ba người cũng vác cây trở về. Có người lực lưỡng vác cây lớn thân cỡ bằng cây chuối đi coi nhẹ nhàng như không. Có những thiếu nữ không đủ sức để khiêng vác nặng, họ lượm những cành khô nhỏ, bó gọn lại rồi ôm về… Thấp thoáng qua những cành lá, những nóc lều xanh xanh chợt ẩn chợt hiện ở phía dưới triền đồi. Tôi lắng nghe thấy tiếng loa phóng thanh văng vẳng từ xa. Rồi toàn khu chợ trời hiện ra dưới thấp. Xa hơn một chút, ở ngoài bãi cầu tàu supply nhỏ xíu với các ghe tàu đậu xung quanh. Tôi đi loanh quanh trong các ngõ hẻm, về tới lều gần hai giờ trưa. Tôi vội quăng khúc củi nợ đen thui đằng trước ngõ, đứng thở một hồi lâu mới lại sức. Mình mẫy lấm lem, phải dội hết mấy thùng nước mới sạch. Buổi trưa đó mặc kệ trời nóng như thiêu như đốt, tôi ngủ một giấc mê man không còn biết trời trăng mây nước…
Các lần sau đi lấy củi đã quen nên tôi không còn lạc đường nữa, củi lấy được cũng nhiều hơn. Có lần lên núi với Tiến và Chiêu, trở về lối cũ, chưa ra tay cưa cắt gì, chợt thấy một đống cây đã vạt từng lát mỏng cỡ chừng ba bốn phân tây, bỏ đầy trắng cả đất. Thì ra đó là cây của dân buôn lậu. Họ chọn những cây to lớn, đốn ngã xong rồi dùng búa vạt thân cẩy ra thành từng tấm ván nhỏ dài cỡ hai ba thước để đóng ghe. Những chiếc ghe thật mỏng manh. Họ lấy dầu chai trét ghe bằng cách khoét bọng cây rồi đốt lấy dầu. Nhiều khi lửa cháy lan, gây thành đám cháy rừng, ban đêm đỉnh núi đỏ rực, dòng lửa ngoằn ngoèo như rắn bò. Mỗi lần rừng cháy, cả đảo kinh hoàng, nếu ngọn lửa cháy lan xuống trại thì cả ngàn người bị thiêu sống. Vật liệu xây cất ở trại toàn bằng chất dẫn lửa, cây ván, bao ny lông, dầu lửa đốt đèn, bếp núc nấu nướng sát vách… vậy mà trời thương, Bidong chưa bị cháy lần nào.
Tôi tìm thấy được đống ván vụn nầy trong một góc rừng. Loại cây có được sớ to, thân thẳng băng, thịt trắng rất dễ bửa nhỏ ra để làm củi chụm. Mà cần gì phải lo, người ta đã bửa vụn ra gần hết rồi, quăng vụt một đống ngổn ngang, bừa bãi! Chiêu và Tiến chạy đi bứt dây rừng, bó làm ba bó. Mỗi bó lớn cỡ vòng ôm. Tôi thấy ham quá, cứ nhét vô thêm cho tới đầy cứng, đến lúc khiêng về, nặng muốn gảy xương sống luôn! Hơn nữa khiêng một thân cây còn nguyên dễ hơn là vác một bó củi lớn. Khúc cây tuy nặng nhưng gọn gàng, còn củi vụn cũng nặng nhưng bề bộn, cứ mỗi bước đi có một hai thanh tuột ra, chỉ chực rớt xuống, lâu lâu phải ngừng để cột lại cho chắc. Kỳ gỗ đó dùng được thật lâu, mãi cho đến khi tôi rời đảo, cũng còn lại một mớ…
Có đi lấy củi mới biết cảm thông thân phận người tỵ nạn Bidong không một đồng xu dính túi. Ở đảo, người gan dạ có máu phiêu lưu mạo hiểm thì đóng ghe chèo ra biển buôn lậu, còn như chậm lụt hơn thì chỉ có nước lên núi đốn củi để bán. Ngoài việc bán củi để chụm, người ta còn bán cây lớn cỡ cườm tay để làm cột lều, bán cây nhỏ cỡ ngón tay để làm vạt giuờng… Muốn có một thước củi để bán, đâu phải dễ dàng gì, phải đốn cây từ núi cao, vác về cưa cắt rồi bửa nhỏ ra, một ngày lao động cật lực, chưa chắc kiếm được bảy đồng Mã Lai! Thiệt là gian nan và nguy hiểm vô cùng.
Rắn cắn cũng chết, cây ngã đè cũng chết, đường núi trơn trợt, té va đầu vào đá.. cũng chết! Cái gì cũng có thể làm cho người ta chết được hết, chỉ vì một ước muốn duy nhứt, họ muốn có tiền để… sống còn!
Chương 22
CHỐN TRĂNG SAO VỜI VỢI
Bi càng ngày càng ưa đòi đi chơi. Thăng bé lớn lên thiếu thốn đủ mọi thứ tiện nghi vậy mà nhờ trời thương nên khỏe mạnh sởn sơ, không hề bịnh hoạn lôi thôi, cũng có thể nhờ cơm gạo Bidong có pha trộn nắng gió trùng dương nên mau lớn. Sáng nào cũng vậy vừa ăn điểm tâm xong là nó đưa hai cánh tay tròn như củ khoai mì ôm cứng cổ tôi, bập bẹ:
– Ba, ba,… ẳm Bi đi chơi.
Duyên cho Bi mặc cái quần tây cụt, không cần mặc áo Trời nực lắm mà, Bidong đường xá dơ bẩn, bãi biển đầy rác rến, bùn sình, Bi cũng đâu cần gì giày dép, hễ muốn đi chơi thì có ba má hoặc các cô, các chú ẳm bồng. Một tháng trời ở đảo Dừa rồi qua tới đây, nắng nóng miền xích đạo đã làm da dẻ thằng nhỏ đen thui, cặp mắt cũng đen thui.
Tôi vòng tay ôm lấy Bi rồi hai cha con lò dò leo xuống cầu thang, phía trước cửa lều. Tôi xỏ chưn vô chiếc dép mới. Sướng quá, đôi dép thật vừa vặn, cái đế cao su kiểu Mã Lai cao tới ba phân tây rất tiện đi trên cát sỏi. Đảo vừa mới ngủ dậy, con hẻm trước nhà còn im lìm, trời đã sáng nhưng người đi đường còn lưa thưa. Nhờ vậy tôi thấy được rõ hàng dừa mọc dài theo bãi cát, những gốc dừa xám nâu to lớn mập tròn. Chừng độ vài giờ nữa thôi, nơi chợ trời nầy người ta buôn bán đông đúc tràn ngập, những gốc dừa sẽ bị thân dừa che lấp, lúc đó chỉ còn thấy được những đọt dừa xanh mướt chói chang dưới nắng. Bỗng nhiên Bi đạp chòi chòi hai chưn vô hông đòi:
– Ba, ba, coi, coi!
Tôi đương nhìn dọc theo hướng trạm y tế khu D, nghe thằng nhỏ bi bô, bèn quay lại theo hướng tay chỉ, thấy trên bãi cát vắng lặng, từ phía vách đá bên mặt, hai người đàn ông lực lưỡng đang khiêng một con rùa biển thiệt lớn đi lên. Chắc là họ vừa bắt được ở đâu đó bên kia vách đá. Con rùa lớn như tảng đá nặng, được cột chằng chịt vô một cây đòn hai người khiêng oằn vai, sức nặng trì xuống khiến bước đi chậm chạp. Khi cả hai vừa lên khỏi bờ cát, đứng dưới gốc dừa để thở thì người hiếu kỳ đã bu lại khá đông. Tôi bồng Bi đi lần tới để coi cho rõ. Mấy đứa con nít xúm nhau vừa coi vừa la:
– Con rùa, con rùa!
Anh chủ rùa chừng như vừa lội ở dưới biển lạnh mới lên, mình mẫy đầu tóc còn đẫm nước, da dẻ tím xanh, vừa bật quẹt đốt thuốc, vừa nói:
– Không phải con rùa… con vích, con vích…
Bi bập bẹ, bắt chước nói theo:
– Coi con vích, ba, ba, coi con vích…
Những người bu quanh gốc dừa, đa số là dân thành phố, lần đầu tiên thấy con vích biển lớn quá nên trố mắt nhìn. Con vật được để nằm ngửa trên cát, bốn chưn ló ra khỏi cái mai, chòi đạp lung tung. Cái mai dầy cứng màu xám đen lớn như chiếc chảo gang đường kính chừng cả thước. Ít ra con vích biển nặng cũng trên cả trăm kí lô. Con vật như biết số phận hẩm hiu của mình nên cố gắng vùng vẫy trong tuyệt vọng.
Có tiếng người hỏi:
– Bắt được hồi nào vậy anh?
– Hồi khuya, nó lên đẻ ở bãi cát.
Người chủ vích vừa hút thuốc vừa hất hàm chỉ về phía vách đá, ý nói ở bờ cát phía bên kia… Như vậy thì hai người nầy cả đêm rồi không ngủ, rình vích cái lên cát đào hang để đẻ, chạy ra lật ngửa nó lên bắt dễ dàng. Duy có điều con vích nầy lớn quá muốn lật nó phải hai người dùng hết sức mới nổi. Một bà Tàu già chen vô đám đông, trả giá để mua. Bà mua để thả rùa về biển làm phước. Con rùa là con vật linh thiêng Cái mai vun tròn như bầu trời, cái bụng vuông vuông bằng phẳng như đất. Trời đất giao nhau, âm dương hòa hợp, nó bẩm thọ khí thiêng của trời đất nên sống lâu ngàn năm. Tuy con vật quí như vậy nhưng bà trả giá thấp quá, anh chủ vích lại không hề biết tới giá trị quí báu của con vật, chỉ muốn để dành ăn thịt nên hai bên thảo luận khá lâu mà giá cả không xong. Hai anh nghỉ mệt hồi lâu, tiếp tục khiêng vích đi sâu vào trong hẻm, bước đi chập choạng. Một đám người tò mò đi theo phía sau…
Không còn gì để coi nữa tôi quay ra ngó mông ngó mênh ngoài biển. Chiếc tàu bịnh viện của Pháp đậu im lìm ngoài khơi như một tòa lâu đài trắng toát. Trời trong xanh, nước cũng trong xanh. Sóng buổi sáng vỗ vào bờ đá êm ái, đều đều. Bi nghiêng mình trì xuống đòi theo hai anh chàng khiêng vích:
– Ba, ba, đi coi con vích, đi coi con vích.
Thằng nhỏ hễ thấy cái gì lạ cũng đòi. Tôi định chiều nó, vừa dợm bước theo thì thấy ở phía vách đá xuất hiện một chiếc ghe lạ. Tôi rán nhìn kỹ. Trời ơi! Ngộ quá, một chiếc ghe vượt biên lớn đang tiến dần vô đảo, trên boong đầy người. Người ta đông cho đến nổi thọat nhìn chỉ thấy họ đứng chen nhau đen nghẹt từ trong ra ngoài, từ trên xuống dưới, không thấy chiếc ghe mà chỉ thấy một khối người lúc nhúc trôi lềnh bềnh trên biển. Bây giờ ở bãi cát người ta cũng túa đông ra từ các ngả. Ở đây thì giờ rảnh rổi nhiều quá, không biết làm gì cho hết, cho nên chỉ cần một chiếc ghe lạ xuất hiện là một dịp may hiếm có để người ta bàn tán, hỏi thăm tin tức, tìm kiếm người quen… cho vui cuộc đời một chút! Những cánh tay vẩy gọi rối rít, những tiếng kêu đồng loạt:
– Ghe vượt biên, vô, vô…
Bi thấy lại cảnh ghe tấp vô đảo quen thuộc ở đảo Dừa nên khoái chí cũng kêu lên:
– Ba, ba, đi coi ghe vượt biên… coi ghe vượt biên
Thôi, trúng tủ thằng nhỏ rồi, tôi bồng con đi lần ra bãi. Phải chen trong đám đông mà đi. Bi cứ đưa tay chòi ra phía trước.
Chiếc ghe nầy lớn cỡ chừng như chiếc BL1648 nhưng chở quá nhiều người. Thoạt nhìn thấy mà hết hồn. Tôi nhớ lại cảnh chen lấn nhau trên chiếc ghe cũ còn sợ, kiếm một chỗ ngồi cũng không có nói chi tới chỗ nằm. Vậy mà chiếc mới đến nầy chở quá nhiều. Người đứng liền nhau không một kẻ hở, làm thành mấy lớp cao thấp, bít kín hết cả phần trên của ghe, chỉ còn thấy được vách ghe mấp mé đè trên sóng nước. Đông quá là đông. Không biết tất cả được bao nhiêu người? Khó mà định được. Chiếc ghe dài chừng hai mươi hai thước, chứa kiểu sắp lớp cá mòi như vậy, dám có trên năm trăm người lắm. Cũng may là vô đúng bến, chưa chìm. Nó đã tới gần, tôi nhìn thấy kỹ hơn. Khối người đông đảo trên ghe còn đầy vẻ tươi tỉnh, xôn xao, quần áo trắng lớp, sáng sủa, tất cả đều hướng vô đảo mừng rỡ như đang cơn khát bất chợt bắt gặp dòng nước ngọt… Niềm vui sướng rạt rào. Quả thật chiếc ghe nầy đã đến đúng nơi. Đảo Bidong, hòn đảo của người tỵ nạn Đông Dương mơ ước, hòn đảo hy vọng. Nó còn có được cái may mắn nữa là đến đúng lúc. Buổi sáng tinh sương cảnh sát Mã chắc còn đang ngủ chưa kịp dậy để đuổi bắt và kéo trả ra khơi.
Mãi cho đến khi nó đến gần chiếc cầu supply thì chiếc ca nô cảnh sát mới bắt đầu nổ máy. Hàng rào người trên đảo như cảm thông nổi đe dọa cho người sắp đến nên đồng lọat la ó vang rền. Tiếng la vừa có ý phản đối ngăn chận việc làm của cảnh sát, vừa có ý thúc hối chiếc ghe cố chạy vô cho lẹ hơn… Tôi hồi hộp theo dõi vái trời cho nó cặp cầu tàu êm xuôi. Quả nhiên chiếc ghe gặp nhiều may mắn. Vừa khi chiếc tàu tuần cảnh sát phóng ra chận đầu thì vừa lúc đó chiếc ca nô của tàu Đảo Ánh Sáng cũng vừa đang trên đường vô đảo. Thấy ghe vượt biên kỳ lạ, chiếc ghe Pháp quay mũi lại để coi và chụp hình. Cái tình cờ may mắn đó đã can thiệp đúng lúc, khiến cảnh sát Mã đành làm ngơ, đâu thể dở trò hành hung đe dọa như thuờng lệ trước sự chứng kiến của người Tây phương. Chiếc ghe chắc cũng không biết được nỗi hiểm nguy vừa thoát được trong gang tấc, vẫn thong thả lướt êm ái trên sóng, rồi từ từ cặp sát cầu tàu… dáng vẻ tự nhiên coi như coi đảo nầy dành riêng cho người tỵ nạn. Ai đã tới được đây, thì cứ… cặp cầu tàu mà vô!
Vì nó mới đến lần đầu, đâu biết rằng đã có biết bao nhieu ghe vượt biên vừa tới đảo đã bị đuổi bắt, kéo ngược trả ra khơi, tình cảnh thật thảm thương. Bao nhiêu ghe đã chìm ở ngoài khơi của đảo? Bao nhiêu mạng người đã chết tức tưởi, oan uổng nơi đây? Sự hiện diện của chíếc tàu bịnh viện Ile de Lumỉère, của nhân viên Liên Hiệp Quốc, của các phái đoàn ngoại quốc… đã cứu thoát được biết bao nhiêu người tỵ nạn may mắn? Chắc là nhiều lắm!
Bi mê man theo dõi, đến giờ mới nói:
– Ba, ba, đi lên cầu tàu, đi lên cầu tàu…
Nghe thằng nhỏ nói, tôi nghĩ nó đòi đến cầu tàu để coi cho rõ. Tôi bồng con len trong rừng người để đến gần. Những người dưới ghe đã bắt đầu bước lên cầu, đứng đầy trên đó. Tôi bèn nghĩ lại, có thể Bi muốn nói mấy người mới đến đã lên tới cầu tàu! Ở vị trí nầy tôi thấy từng đoàn người từ trong khoang ghe chui ra leo lên cầu, lũ lượt đứng sắp thành hàng dài, dòng người cứ tiếp nối lan dần mãi ra. Chiếc cầu cả trăm thước chiều dài, bây giờ từ đầu chí cuối đều có người đứng chật không còn một chỗ trống. Từ ngày lên đảo cho tới hôm nay, tôi cũng thấy có vài chiếc ghe tới Bidong nhưng chưa có chiếc nào chở nhiều như chiếc nầy, chở đông như vậy chắc là đạt kỷ lục theo kiểu vượt biên bán chánh thức… Quả là sinh mạng người bị trục xuất ra khỏi xứ rẻ quá, y như con ruồi con muỗi. Sống cũng được mà chết cũng được… miễn sao nhà nước thâu được càng nhiều vàng càng tốt!
Những nhân viên trật tự phải dùng loa phóng thanh cầm tay điều động, chỉ dẫn cách thức làm thủ tục lên đảo. Họ phải đếm đi đếm lại số người. Trong khi đó bọn lính Mã Lai lố nhố trên ghe, moi tung các đống hành lý để tìm vàng bạc và võ khí. Thủ tục rềnh rang lâu lắc… Mặt trời đã lên cao, nắng bắt đầu đổ lửa. Bi chừng đã chán nên đòi đi chơi. Rừng người trên bờ đã tản mác, thưa bớt. Tôi bồng Bi đi lơn tơn dọc theo bờ cát hướng về đồi Tôn Giáo. Phía sau lưng vẫn còn hàng người đứng nhẫn nại, chờ đợi trên cầu tàu. Tụi lính Mã đang làm tội làm tình chiếc ghe. Chuyến nầy thì không biết có được phát tài không, chớ mấy hôm trước tụi nó được một vố to. Buổi trưa hôm đó, chừng độ ba giờ có hơn, cũng một chiếc ghe vượt biên đến đảo. Chiếc nầy nhỏ chừng mười bốn, mười lăm thuớc, dáng cũ kỹ nghèo nàn. Nó lướt trên biển chậm rề như người bịnh nặng. Thông thường khi thấy đảo Bidong, ghe nào cũng mừng rỡ như gặp cái phao giữa biển, mở hết tốc lực đâm sầm vào, người trên ghe nhảy ùa hết xuống, lội bì bõm vào bờ cát. Điều lo sợ nhứt của người tỵ nạn là nếu Mã Lai bắt gặp sẽ cho ghe cảnh sát ra chặn bắt và kéo ngược ra biển khơi. Ở vào trường hợp nầy, cái chết nhẹ như lá rụng!
Chiếc ghe chiều đó, thay vì lướt mau hơn, nó đi chậm lại rềnh rang. Đám đông trên bờ nóng ruột thúc hối, la ó vang rền -Vô đi… lẹ lên, vô đi! Có người tìm ở đâu không biết một lá cờ vàng ba sọc đỏ, phất lia phất lịa. Chiếc ghe vẫn chậm rì. Người cầm cờ nghĩ là phất như vậy, trên ghe khó thấy nên nhờ một người nữa giăng ngang nó ra, cố nhóng lên thật cao… Chiếc ghe vô gần tới cầu, ai nấy hồi hộp trông theo. Nào ngờ, thay vì cập bến, nó lại đổi hướng từ từ quay ra biển khơi. Vận tốc càng lúc càng tăng, cái ghe đã ra xa trông nhỏ xíu. Lúc đó, tôi đứng ngay ở đầu cầu, không hiểu tại sao, lòng đầy thắc mắc. Mấy người đứng kế cũng bàn tán xôn xao. Ghe đã tới được Bidong rồi, sao không chịu vô? Chuyện khó tin mà có thật! Có lẽ trong đám người chứng kiến trưa đó, ngạc nhiên nhứt là đám lính Mã Lai trong đồn. Chiếc ghe tuần tiểu đi đâu mất nên trưa nay không thấy trên bến. Đúng là cảnh vắng chủ nhà gà mọc đuôi tôm… Chiếc ghe rời xa đảo, bây giờ chỉ còn là một chấm nhỏ ở chưn trời. Tôi nghĩ, chắc nó điên rồi, đã tới được Bidong sao lại quay bỏ đi, định tìm bến nào nữa…
Tôi ngơ ngác, tức mình, không đủ kiên nhẫn để theo dõi lâu hơn định bỏ về nhưng còn nắm nuối đứng ỳ đó. Chừng độ năm mười phút sau, nó lại lừng lững quay ngược trở lại, dáng ngập ngừng. Đấm đông trên bờ, tụ tập lại, la ó vang rền. Lần nầy thì nó mới chịu vô thiệt. Nắng buổi trưa loang loáng trên mặt biển vàng chói. Sóng rập rình, mặt biển êm ả. Chiếc ghe đậu hờ bên cầu. Tôi len trong đám đông để đến gần. Trên ghe đông chừng ba chục người, đứng lấp ló trong khoang, ngó đăm đăm lên đảo. Trên boong có năm bảy người đàn ông. Một người khá trọng tuổi, dáng chỉ huy, hỏi vọng lên bờ:
– Đây là đâu vậy?
– Đảo Bidong, đảo Bidong nè… ở Mã Lai. Sao ghe tới đây rồi mà không chịu vô?
Người đó hỏi tiếp:
– Đảo Bidong? Sao người vượt biên mình ở đây đông quá vậy? Bộ bị bắt nhốt hết vô đây hả?
Tôi chợt hiểu, ông ta sợ vô đây rồi bị bắt. Có lẽ ở bên nhà ông ta bị tuyên truyền sao đó!
– Đừng sợ, không sao đâu vô đi, đây là trại tỵ nạn lớn nhứt ở Mã Lai… Ở đây có Cao Ủy Liên Hiệp Quốc bảo vệ…
Ông ta suy nghĩ hồi lâu, quay qua bàn bạc với mấy người kế bên, dáng ngập ngừng không quyết. Mọi ngưới xáp đến gần ghe, càng lúc càng đông. Nắng nóng như đổ lửa, mồ hôi nhỏ giọt. Trong bụng tôi đâm sốt ruột bực mình. Ông già nầy lẩn thẩn quá, đã tới Bidong là phước đức ông bà ngó lại, còn muốn gì nữa mà chưa chịu lên cho rồi! Chắc là ổng muốn đi tới bên Tây Ở đây láng cháng tụi cảnh sát Mã nó ra tới là lôi thôi, lúc đó muốn vô cũng không được!
Bất ngờ, sau một hồi bàn bạc, ông ta quay lên hỏi tiếp:
– Tôi không muốn vô đây… muốn đi Úc. Từ đây đi Úc có gần không?
Trời ơi! Ổng muốn đi Úc, với chiếc ghe mục nầy? Tôi nhìn sững chiếc ghe. Nó nhỏ quá, nhỏ quá, thua chiếc BL 1648 của tôi xa. Cây ván lại cũ kỹ, mỏng manh, vậy mà đòi đi Úc. Làm sao được, mấy người nầy, một là điên, hai là điếc không sợ súng. Đi Úc với chiếc ghe xịch xạc gần rã nầy? Như vậy họ phải lênh đênh trên biển khơi một tuần, hai tuần hay một tháng nữa không chừng. Mà chắc gì họ không gặp hải tặc, bão tố, đá ngầm… và bao nhiêu nguy hiểm khác chờ chực, gan mật họ chắc bằng thép cứng, không biết sợ chết là gì!
Những người bu quanh, mỗi người một tiếng ai cũng khuyên là nên ở lại đừng đi:
– Bộ ông tưởng đi Úc gần lắm hả, từ đây qua tới đó phải một tháng. Mấy ông có hải bàn, hải đồ không? Một tháng là không bị lạc đó! Còn bị lạc là… một năm!
– Suy nghĩ cho kỹ đi ông ơi, ghe ông nhỏ quá, đi chừng vài ngày nữa là rả máy rồi, cây ván gì cũng mục hết, xăng dầu, nước uống làm sao đủ… Đi một tuần nữa cũng không nổi, nói chi tới một tháng!
– Ông muốn đi Úc thì bây giờ lên đây đi, làm thủ tục nhập trại rồi xin đi Úc, nghỉ ngơi cho khỏe, đi Mỹ thì khó chớ đi Úc dễ mà…
– Ở dọc đường đi Úc, có mấy hòn đảo có mọi ăn thịt người, bộ ông không sợ sao?
Tuy mọi người cố gắng đưa lý lẽ ra để khuyên nhưng người trên ghe dụ dự chưa quyết. Không biết bên Úc có gì hấp dẫn mà họ ham quá vậy? Câu chuyện loanh quanh cho tới khi lính Mã trong đồn vác súng săn chạy ùa ra. Lúc nầy thì chuyện đi hay ở là do chúng quyết định rồi. Chúng hùng hổ chun xuống ghe lục soát. Cũng cái trò cũ tìm vàng bạc và võ khí. Lần nầy thì tôi mừng cho những người mới tới nầy. Chắc là khi lục soát xong chúng sẽ cho làm thủ tục nhập đảo, sau khi chiếm đoạt của cải vàng bạc quí giá. Dầu có mất mát chút đỉnh, năm ba lượng vàng, một hai cái máy thu thanh cùng những thứ họ chở theo trên ghe nhưng có một thứ quí báu nhứt mà họ còn giữ được, đó là mạng sống. Hễ còn sống là còn tạo ra tiền của được, còn chết đi rồi thì dầu có cả kho vàng cũng thành không!
Trong khoang ghe tối om om. Tụi lính Mã đi tới đi lui chộn rộn. Cuộc lục soát dằng co lâu lắc. Mãi khá lâu mới xong. Người dưới ghe không được lên bờ. Ghe được lịnh neo ở bến. Tên xếp đảo cùng mấy người lính dẫn ông già chủ tàu cùng người vợ lên đồn. Mặt mày người nào người nấy cũng căng thẳng, im lặng. Người đàn bà cũng khá lớn tuổi xách một túi hành lý, trong khi ông già cùng một người lính Mã khiêng chung một bao bố nâu to nặng nề. Không biết chứa gì trong đó mà có vẻ nặng lắm. Mấy ngươi lính Mã đi trước mở đường, vẻ gấp rút hối hả. Đám đông bu quanh càng lúc càng đông. Ai nấy đều ngó lom lom vào cái bao bố, thắc mắc không biết cái gì ở trong… Tôi đoán chừng cái bao bố nầy là nguyên nhân khiến ông già không muốn ghé vô đây mà đòi đi Úc, vậy thì trong bao chỉ có thể là vàng bạc hay võ khí. Vậy thì là gì? Ông già nầy thuộc hạng người nào? Theo hình dạng và cách nói năng, ông không có vẻ gì là người học thức cao, cũng không phải là người sang trọng quí phái. Ông có thể là một người nhà giàu ở quê, cũng có thể là một quân nhân cương quyết… tôi đoán không ra.
Một lúc sau, thiên hạ cả đảo đồn rùm, không biết nguồn tin hấp dẫn do ai tiết lộ ra. Ông già chủ ghe là Phó Bí Thư Tỉnh Ủy Rạch Giá hay Long Xuyên gi đó, tổ chức đưa người vượt biên theo chính sách của nhà nước. Ông ta thi hành thiệt chu đáo, số vàng thu được khá lớn lao. Thay vì nộp hết vô kho, ông ta lấy bớt một mớ… để tính công. Tuy là một mớ in ít nhưngcũng trên cả ba ngàn lượng. Số vàng nầy quá lớn Hơn ai hết, ông là người biết rõ cộng sản, nếu với số vàng nầy ông đâu có thể ở yên với các đòng chí thân yêu. Thói đời trâu cột ghét trâu ăn. Ở lâu có ngày mang họa. Vàng đã không hưởng được mà chính sinh mạng chưa chắc đã còn! Hay nhứt là đi Úc. Úc là nước văn minh không ăn cướp bậy bạ, còn Mã Lai, Thái Lan, Nam Dương chắc cũng giống y như nuớc Việt Nam có bác Hồ vô vàn kính yêu của ông ta, chuyện luật lệ minh bạch làm gì có ở trên cõi đời nầy.
Ba ngàn lượng vàng đâu phải ít. Tính ra nặng trên cả trăm ký lô, rẻ nhứt cũng trên triệu rưỡi Mỹ Kim. Trời! Một triệu rưỡi Mỹ Kim nằm trong tay một người! Mà ở Việt Nam hiện nay có bao nhiêu Tỉnh Ủy, Phó Tỉnh Ủy, Trưởng Ty Công An, Trưởng Ty Hoa Vận… nghĩa là có mấy trăm, mấy ngàn ông già… giống như ông già mang vàng vượt biên nầy! Họ còn ở lại trong nước quyền hành trong tay, ăn chơi phè phỡn trên mồ hôi nước mắt của người dân khốn khổ. Giữa mấy ngàn ông già đáng ghét đó, nếu suy nghĩ thêm một chút thì ông già có ba ngàn lượng vàng ở Bidong đã làm một việc ngọan mục… đáng được tha thứ! Ông ta đã dùng số tiền lớn lao đó để hưởng thụ cho cá nhơn ông và gia đình… dầu sao cũng còn hơn là nộp hết vô kho nhà nước, với số tiền nầy người ta sẽ sắm thêm được bao nhiêu súng đạn, trả lương được cho bao nhiêu tên công an, kéo dài bao lâu thêm bộ máy đàn áp dân chúng? Phải chi tất cả mấy ngàn ông già đầy quyền thế còn ở lại Việt Nam đều ôm vàng leo xuống ghe đi hết thì nhân dân Việt Nam đỡ khổ biết bao nhiêu. Điều đau khổ của dân tộc là những người lãnh đạo vừa tham lam, vừa tàn độc. Vì tham lam nên tàn độc. Mà càng tàn độc lại càng tham lam. Đúng là cái vòng lẩn quẩn. Họ cai trị đất nước mới có mấy năm mà toàn dân nghèo đói xơ xác, phải đành bỏ xứ mà đi, để lâu thêm một thời gian nữa thì đất nước sẽ tan hoang, điêu tàn…
Tôi bồng Bi đi dọc theo bãi cát, hình ảnh chiếc ghe đầy người mang mang trong đầu, rồi đâm nhớ ông già đi Úc kia, tự hỏi, không biết ba ngàn lượng vàng đựng trong bao bố của ông ta có bao nhiêu lượng của người trên ghe hồi sáng đã đóng góp? Mà cũng không biết đâu chừng cũng có vài lượng của tôi nữa! Lương một giáo viên cấp Ba là sáu chục đồng, một lượng vàng là một ngàn bảy trăm. Vậy muốn mua một lượng vàng tôi phải còm lưng đi dạy một khoảng thời gian dài dằng dặc là hai mươi tám tháng, không ăn không uống, mới đủ. Còn ông già kia, có được số vàng lớn chỉ trong vòng mấy tháng. Sướng quá! Nghĩ cho cùng làm quan sướng hơn ăn cướp. Cả hai giống nhau ở chỗ, có tiền nhiều trong một thời gian ngắn nhưng khác nhau ở chỗ, một đàng phải dùng võ khí, sức lực để cướp giựt, còn một đằng cứ nằm ngủ ở nhà, người ta phải đến lạy lục, năn nỉ để đưa. Mà chuyện đời ngộ lắm, người đi đút lót đã mất vàng, mất bạc mà lại mừng rỡ, cám ơn không dứt lời. Quan lớn mà không chịu nhận thì rầu rĩ, ủ ê. Thiệt tình, hết nước nói! Ở xứ nghèo có nhiều chuyện lạ…
Đường đi lên dốc thoai thoải. Đồi Tôn Giáo mấy tuần nay toàn cảnh thay đổi hẳn. Cây cối rậm rạp hoang vu bắt đầu nhường chỗ cho những căn lều thô sơ mọc lên vội vã, dưới nền đất còn đầy vết tích của cuộc lấn đất bừa bãi. Những gốc cây bị chặt không sát, trơ gốc còi cọc, nhựa ứa vàng lem luốt. Rải rác đây đó còn còn năm mười cây lớn cỡ người ôm chưa ai đụng tới, tàn lá như cây lộng tròn che mát cho ngôi chùa Phật được dựng nơi cao nhứt trên đỉnh đồi. Cạnh bên là nhà thờ Tin Lành thấp và nhỏ hơn y như một mái lều tranh nghèo xác xơ tơi tả. Phía sau là nhà thờ Công Giáo được tạo dựng bằng những vật liệu do các tín đồ đóng góp, tất cả cột kèo đều là cây gỗ đốn ở núi khiêng về. Vì không có ván, người ta phải ghép các cây tròn lại, đóng thành những ô vuông để dừng vách, cho nên từ ngoài nhìn vào thấy trống trơn. Tôi bồng con đứng ngoài nhìn toàn cảnh, cây đá im lìm, khác hẳn cái sinh hoạt ồn ào, rộn rịp đưới kia. Người nào đã chọn nơi đây để xây dựng các cơ sở tôn giáo nầy cũng khéo chọn cuộc đất. Đứng ở đây thấy bao quát toàn cảnh của trại tỵ nạn. Hội Trường cùng khu chợ trời ở dưới ngay tầm mắt, khu A với cầu supply dài ngoằn. Phía sau lưng đồi dốc đá dựng đứng là bãi biển khu C với các quán nhạc. Nếu ở thành phố có những công viên dành cho khách nhàn du thì ở Bidong đồi tôn giáo là công viên của đảo. Dưới kia đâu còn một chỗ trống. Cứ vào mỗi buổi chiều, trời vừa sụp tối các thanh niên nam nữ rủ nhau ra đây hò hẹn, ít ra ở một góc chùa hay bên vách nhà thờ cũng còn vài khoảng trống cỏ mọc xanh um, cũng còn năm bảy gốc cây to cỡ vòng ôm che kín được sương gió, còn chỗ nào tốt hơn nữa…
Nhưng cuộc lấn đất giành dân không diễn ra âm thầm. Mới có mấy ngày, tôi trở lại nơi đây, mọi sự khác lạ hết. Đất đai xung quanh chùa hay nhà thờ bị thu hẹp dần dần. Chỉ còn khu nghĩa địa là chưa bị đụng tới, có lẽ nhờ mấy chục mộ bia bằng cây còn mới tinh. Nhưng chưa, không có nghĩa là không. Người chết đâu có biết nói năng thì làm sao mà tranh chấp được với người sống. Vả lại dầu gì đi nữa thì cũng đã chết rồi. Nếu phần mộ có bị xiêu lạc, san bằng thì cũng nên nhường một chút xíu đất đai cho một cái lều mới dựng, có lẽ như vậy tốt hơn. Những ngôi mộ thấp chũm, lè tè y như mô đất nhỏ. Có vài ngôi cỏ mọc xanh um, còn phần nhiều mới đắp trơ đất sét vàng. Tận trong cùng sát vách đá, một lỗ huyệt hình chữ nhựt mới vừa được đào, đáy cạn sợt… Một người tỵ nạn nữa vừa chết! Tôi nhin thấy, lòng tự hỏi không biết người chết trẻ hay già, chết vì bịnh hay vì tai nạn xảy ra? Ở đảo đâu có cái chết nào giống cái chết nào. Mà sao cái chết nào cũng nhiều đau xót!
Tôi đứng nép vô gốc cây lớn để tránh nắng. Đã gần trưa mặt trời lên cao, chói lọi khối lửa vàng hực chói lòa. Tuy đứng dưới bóng râm mát tôi vẫn thấy hơi nóng hầm hập. Đoàn người đứng dài trên cầu tàu đã bắt đầu di chuyển vô khu tạm trú. Họ lũ lượt nối tiếp nhau chầm chậm nhỏ xíu như đàn kiến đi vào tổ khổng lồ, lúc nhúc mấy chục ngàn con kiến nâu đen đã ở từ lâu. Ở dưới thấp cũng có một đoàn người thưa thớt đi lượn quanh theo vách đá, chầm chậm theo con đường mòn quanh co leo ngược lên đỉnh đồi. Nắng từ đỉnh đầu chiếu xuống những bóng đen lem luốc bước đi chập choạng, lao xao…
Họ đông chừng độ mười người, dẫn đầu là bốn người đàn ông khiêng trên vai một cái hòm cây mỏng tanh, đóng sơ sài. Tất cả diễn ra trong im lìm, không một tiếng động ồn ào như những đám ma bình thường. Đúng rồi, lỗ huyệt đã dọn sẵn ở đây dành cho người chết đó. Đám đông đã tới gần. Không một lư nhang, không một ngọn nến đỏ… Những người đi theo sau, không ai khóc. Có lẽ người chết chỉ một mình đến đảo, không có thân nhân. Nhưng trên những nét mặt u ám, tôi cảm thấy một nỗi buồn xa vắng lắng đọng. Người chết nghèo quá, không có gì hết, ngay cả khi tới huyêt đạo, cũng không có một giọt lệ tiễn đưa… Những người đưa đám chắc là bạn cùng ghe hay là người lân cận? Họ cũng đâu còn nước mắt để khóc cho người bạc số… Những dòng lệ đã cạn khô từ khi bỏ nước mà đi!
Những nắm đất được quăng lộp độp xuống nắp hòm, những nhát cuốc đắp nấm mộ vội vã.. Tất cả mọi người có mặt không ai nói với ai một lời, chỉ có tiéng sóng rào rào phía bên ghềnh đá. Nấm mộ từ từ được đắp cao, lẹ quá nhờ đáy huyệt đào khá cạn. Trong phút chốc, công việc đã hoàn tất. Các người đắp mộ cầm cuốc đập đập lại lần cuối nắm đất sét vàng trộn đầy cát. Một anh đến dưới bóng cây móc thuốc ra hút. Tôi đứng kế bên, chờ đợi để nghe họ nói chuyện với nhau. Ít ra trong câu chuyện, cũng biết được chút ít thân thế người vừa nằm xuống ở một góc đảo hoang nầy. Tôi rán chờ… Bi chừng đã chán nên đòi về. Mãi cho đến khi mọi việc đã xong, đám đông thu xếp cuốc xéng, sau khi một mộ bia bằng cây được dựng tạm trước mộ sơ sài, tôi chỉ nghe được người trẻ tuổi nhứt trong đám nói một câu -‘Ổng hên đó, trên đồi Tôn Giáo chỉ còn có được chỗ nầy, mấy người chết sau phải đem chôn trên núi!’ Tôi đưa mắt nhìn rảo quanh một vòng. Nghĩa địa chật cứng. Xung quanh là những túp lều mới chen lấn nhau từng hốc đá, từng mô đất để mọc lên vội vã. Hết rồi, không còn chỗ cho người chết nữa. Quả đúng không còn một tấc đất nhỏ để chen chưn, người chết trước quá may mắn. Anh bạn trẻ nầy có lý thiệt tình!
Tôi bồng con trở xuống chưn đồi, bước đi nặng chình chịch! Ở dưới kia, rừng người sống hổn độn, ồn ào. Các sinh hoạt hăng ngày vẫn tiếp diễn đều đặn. Trời nắng chang chang, cả hai cha con như muốn bốc thành khói, đầu tôi váng vất, mang mang một nỗi ngậm ngùi. Người chết ở Bidong lạnh lẽo quá, không có được một tiếng khóc tan thương tiếc tiễn đưa Cái hòm bằng cây tạp đóng sơ sài, cái đáy huyệt cạn sợt, tấm mộ bia lớn bằng bàn tay. Rồi hết…
Nếu một mai tôi chết trần truồng không cơm áo
Thì hồn tôi xin phảng phất chốn trăng sao
(Quách Thoại)
Đời một người… ước nguyện đơn sơ đến như vậy sao? Thôi, cát bụi sẽ trở về với cát bụi, thân xác sẽ mục rữa theo tháng năm, linh hồn chắc sẽ lang thang vất vưởng nơi đầu ghềnh cuối bãi. Cầu trời cho ông biết hướng mà trở về quê hương đất nước chớ ở đảo vắng giữa trùng dương nầy làm gì có chỗ nương tựa, dầu đó là chùa hay nhà thờ ở đồi Tôn Giáo. Chùa cũng vá víu mà nhà thờ cũng tạm bợ… Nhưng trong khi dò dẫm tìm phương hướng mà trở về quê cũ với thân bằng quyến thuộc thì đêm nay hồn ông tạm trú nơi đâu? Ở suối vàng làm gì có quán trọ… Cửu tuyền vô khách điếm, kim tịch túc thùy gia?
Hỡi ơi! Đêm nay hồn ông có đến được chốn trăng sao vời vợi?
Chương 23
CƠN BÃO ĐẦU MÙA
Cuộc tình cờ không hẹn mà gặp, tối nay ở nhà mát Vũng Tàu hầu như đủ mặt. Tôi vì đến sớm nên giành được chỗ tốt, ngồi gần cây cột phía vách sau, khi mỏi dựa lưng cũng đỡ khổ. Sơn và Út Trung xê qua sàng lại cũng chiếm được hai cây cột ở hai bên. Anh Tư mò ở đâu đó một cây đèn dầu lớn, đốt lên ngọn lửa sáng màu vàng đục, ống khói đen thùi. Cái lều được dựng cheo leo trên một đống đá ngổn ngang vậy mà cũng khá chắc nên khi Quách Linh Hoạt và Dân gì đó vừa tới, leo lên cầu thang rầm rầm mà cái lều không chút lung lay… Cũng lạ thiệt, thằng Dân gì đó biệt tăm biệt tích cả tuần nay, không biết nó chun trong cái hốc nào mất tiêu, bây giờ mới xuất hiện đi chơi, lại kéo thêm ông quan ba hải quân Quách Linh Hoạt, có vẻ ốm và đen hơn lúc ở đảo Dừa.
Anh Tư Trần Hưng Đạo nấu xong bình trà lớn để ở giữa phòng, giọng ồm ồm:
– Vậy là có đủ mặt anh em, tối nay tụi mình họp đại hội được rồi… Hai bạn bộ có hẹn đi chơi chung hay sao mà tới một lượt vậy?
Dân gi đó loay hoay một hồi rồi ngập ngừng trả lời:
– Ừa, ừa, tôi với anh Hoạt đi chung gì đó…
Nghe nó trả lời, tôi đâm ngạc nhiên. Cái thằng nầy lúc nào cũng láu táu khỉ khọn, cười nói không dứt, sao bữa nay lại êm ru bà rù. Nó mặc một cái áo lính ka ky cũ kỹ, cái quần cụt đen, trông rất bụi đời. Không thấy nụ cười với chiếc răng vàng le lói thường ngày.
Tôi đưa tay ngoắc, chỉ một chỗ trống bên cạnh:
– Dân ngồi kế bên anh đây nè…
Tuy lều cũng khá cao nhưng nó vẫn đi lom khom như sợ đầu đụng phải cái nóc bên trên, trong bóng đêm nhá nhem ánh đèn, tôi thấy nó hốc hác qua dáng điệu quờ quạng. Mùi mồ hôi hăng hắc bốc lên từ chiếc áo cũ lâu ngày không giặt. Tội nghiệp một thân một mình không ai chăm sóc. Thằng Kiệt em nó, cũng tưởng được Hủ Tiếu hứa cho đi chung, nhè đâu tới phút chót lại đổi ý, thành ra thằng nhỏ phải dội về Chợ Lớn. Con người có số mạng, y như có lần nó đã nói -‘Hể cái số đi được thì dầu nằm nhà cũng có người tới rủ đi, còn không đi được thì có lên tới nóc ghe cũng bị đuổi xuống’. Quả đúng y chang trường hợp em nó. Dân gi đó ngồi bệt xuống sàn, hai tay để dài trên đầu gối, nhìn ra cửa lều. Trời đêm nay không trăng cũng không sao, đêm tối đen mịt mùng. Phía dưới xa xa, ánh đèn của dãy nhà kho và cầu tàu chỉ soi sáng một vùng mờ mờ vàng vọt. Trên đỉnh núi có những đốm lửa nhỏ của đám cháy rừng. Tiếng sóng ngàn năm rì rầm xa vắng. Quách Linh Hoạt ngồi phía cạnh cửa lều, tiếp lời Dân:
– Ghé lại chơi với anh em một chút xíu thôi. Tôi với Dân gì đó tối nay có hẹn vượt đường mòn Hồ Chí Minh… Lúc nầy hai đứa kẹt quá nên rán bò!
À, thì ra hai anh bạn nầy gia nhập vô băng buôn bán làm ăn ở chợ trời. Vượt đường mòn Hồ Chí Minh ở Bidong có nghĩa là xuống bãi Buôn Lậu hay bãi Sang Đồ mua hàng hóa của các ghe buôn lậu, rồi chuyển hàng đi xuyên qua núi theo đường mòn gai góc cheo leo trong đêm hôm khuya khoắc để vào ngả sau, chun vô khu chợ trời. Hàng vô được tới chợ là an toàn trên xa lộ. Nếu giữa đường gặp phải cảnh sát Mã hay các tay anh chị của các băng đảng đón đường cướp giựt thì kể như là cụt vốn. Dân đi buôn phải xuất vốn mua hàng hóa, thông thường các mặt hàng thông dụng như gạo, đường, cà phê, thuốc lá, bôm, nho, nước ngọt, dép, khăn… rồi mướn người khiêng vác về chợ, lời hay lỗ là do giá thị trường lên xuống. Còn như không vốn chỉ ra công vác một thùng hàng về tới nơi thì lãnh được một đồng tiền Mã. Chỉ cần nghĩ tới đọan đường mà hai bạn sẽ phải trải qua trong đêm hôm khuya khoắc, tôi cũng đủ ớn lạnh xương sống. Họ phải đi thầm trong bóng đêm mịt mùng, không được dùng đèn bấm để soi sáng, hầu tránh cảnh sát và bọn cướp giựt, len lỏi trên các đường dốc dựng đứng, hiểm trở quanh co, đầy đá sỏi gay góc gian nan…
Tôi đã hiểu tại sao Dân trở nên ít nói và thay đổi. Tôi nắm lấy cánh tay khẳng kheo của nó:
– Em đi như vậy có cực khổ lắm không?
Nó trả lời xụi lơ:
– Vác cái thùng thì không nặng, chỉ có điều phải thức đêm, về tới chợ là gần sáng gì đó. Em ngủ ban ngày… mà nắng nóng quá ngủ không được gì đó!
Quách Linh Họat tiếp lời nó:
– Đi vài lần rồi quen, cũng còn chịu đựng được. Nhưng sợ nhứt là hai ba toán buôn lậu đụng chạm quyền lợi nhau, có thể vì tranh mua, phá giá hoặc cướp giựt, thường xảy ra các cuộc thanh toán, đâm chém dữ dội. Mình kẹt ở giữa là lãnh đủ. Cũng may tôi và Đân chưa bị lần nào. Tụi nầy mới đi thử có tuần nay…
Tôi nghe nói, ở đảo có nhiều băng đảng, họ chia ra nhiều phe nhóm làm ăn. Khu F là băng của dân Tàu nhà giàu, khu G là dân thủy thủ, khu D là dân chợ trời, …rồi có đảng Satan, đảng Quỉ Kiến Sầu,… đảng nào cũng dữ dội. Ở trên đồi Tôn Giáo phía bãi sau khu C có một nhóm người Miên cũng là tay anh chị bự. Có lần một người trong nhóm bị băng của người Tàu đánh tới lòi mắt. Ngoài chuyện tranh giành quyền lợi, còn có chuyện tranh giành thế lực, hoặc tình yêu… Nhiều khi việc nhỏ xíu không có gì, cũng có thể chém giết nhau được. Người nào đến đảo cũng mang trong lòng biết bao khổ đau, uất ức, bực dọc, khủng hoảng… như một trái phá đã gắn ngòi. Chỉ cần một tia lửa nhỏ trái phá sẽ nổ tung! Như mấy hôm trước, tôi đang chìm trong giấc ngủ say nồng, chợt tỉnh giấc vì có tiếng la hét ghê rợn trong đêm trường tịch mịch. Tôi rán lắng nghe. Lều thuộc khu G nằm trong khu vực giao thông của dân buôn lậu, từ bãi Sang Đồ vượt núi để lòn ngả sau vô chợ trời. Tiếng gậy gộc đập nhau chan chát. Tiếng chưn chạy rầm rập ngoài ngõ. Bỗng nhiên có tiếng la lớn thảm thiết -‘Chết tao rồi, trả thù cho tao!’ Trời! chuyện gì vậy? Đêm khuya cả trại im lìm, tiếng kêu la lồng lộng nghe rùng rợn hãi hùng. Tôi lo trong bụng vì vách lều cột bằng bao ny lông đựng bột mì bở rẹt, nếu mấy tay cao thủ nầy đâm chém nhau, chạy càn đại vào lều để tránh đòn thì khá nguy hiểm…
Tôi hỏi Quách Linh Hoạt:
– Làm sao mình biết ai buôn bán làm ăn, ai cao bồi du đảng cướp giựt?
Quách Linh Hoạt cười:
– Bạn cứ nhìn Dân gì đó với tôi là biết ngay. Người buôn bán lương thiện là tại không có tiền nên phải kiếm cách bương chải, mua đi bán lại để kiếm sống. Còn mấy đảng ăn cướp là thuộc thành phần du đảng, bất hảo từ bên Việt Nam, qua đây tiếp tục theo đường cũ. Đâm chém, cướp giựt, giành gái, nhậu nhẹt, say sưa…
Sơn hỏi:
– Ở Mã Lai là xứ Hồi Giáo cấm tuyệt rượu, làm sao có được mà uống?
Dân gì đó giải thích:
– Mình thì không mua ruợu được gì đó… Chớ mấy tay dao búa thiếu gì… Thịt heo, ruợu nó mua của các ghe buôn lậu… có khi mua của mấy thủy thủ ghe tàu chở tiếp tế nước gì đó…
Tư Trần Hưng Đạo góp chuyện:
– Ở đâu cũng vậy, có tiền là có đủ thứ. Bạn thấy đó ở chợ trời Bidong đâu thiếu thứ nào. Cà phê, hủ tiếu, cháo gà, thợ uốn tóc, hớt tóc, thợ bạc, thợ sửa đồng hồ…
Tôi thắc mắc:
– Vậy chớ cảnh sát Mã và ban an ninh trại không kiểm soát được hết sau?
Quách Linh Hoạt cười:
– Cảnh sát Mã có chừng một tiểu đội vừa lo tuần phòng ghe tàu vượt biên tấp vô đảo, vừa lo rượt bắt ghe buôn lậu… để kiếm tiền, còn thì giờ đâu mà can thiệp chuyện cao bồi, chuyện du đảng đâm chém nhau… Mà dầu có chết năm ba người thì cũng đâu có sao. Hình phạt của Mã là nhốt dưới nhà sàn và cạo đầu trọc lóc những tội vi cảnh như đánh lộn, nhảy đầm… Còn giết người hoặc Cộng sản thì giải qua bên Kuala Trengganu để điều tra và xét xử…
Út Trung nói:
– Tôi nghe hôm trước, tụi Mã đi tuần trên chóp núi có bắt được trong một cái đồn bỏ hoang, bốn Việt Cộng đang dùng điện đài để liên lạc về Việt Nam. Ghê chưa, ở đảo bây giờ số người đông gần bốn chục ngàn, không biết ai tỵ nạn thiệt, ai tỵ nạn giả…
Sơn mãi lúc đó mới nói :
– Các bạn có nhớ thằng cán bộ Hoa Vận của Bạc Liêu không?
Tôi nói:
– Nhớ chớ sao không, nó người Tiều lai, đen thui cao lớn, tóc quăn dợn sóng… chuyện gì vậy?
Sơn nói hạ giọng:
– Lúc nó kiểm soát tụi mình xuống ghe ở Cà Mau, rồi thừa lúc đêm tối trà trộn đi theo luôn, không ai để ý hết vì ghe đông quá. Trong chiếc BL 1648 có vợ con nó theo từ trước, qua tới đảo Dừa không bao giờ ló mặt ra ngoài. Đám Hủ Tiếu che chở đùm bọc. Nhưng khi tới Bidong thì ban an ninh trong trại biết được, kêu lên kêu xuống điều tra, tài công Hốt với tài công mặt rỗ cũng bị nữa…
– Rồi sao?
– Hốt với mặt rỗ thiệt tình tỵ nạn nên không bị rắc rối, còn tên cán bộ Hoa Vận bị đưa qua bên Trengganu để điều tra lại chưa thấy trở về, không biết là có bị chuyện gì không? Ban an ninh trại bất lực với các băng đảng vì họ sợ bị trả thù nên ít để ý tới bọn nầy. Họ chỉ theo dõi bọn cộng sản, ghe nào vô đảo cũng phải để ý sợ bọn nó trà trộn vô tập thể tỵ nạn… Cũng khó lắm vì có nhiều khi họ là Cộng sản thiệt, nhưng cũng tỵ nạn thiệt. Vấn đề là làm sao biết được họ có hoạt động cho Cộng sản hay không. Từ ngày đảo thành lập trại tỵ nạn tới nay có tất cả ba mươi sáu người mất tích một cách bí mật. Có tên trong danh sách nhập trại mà không có người, có thể họ chết mất xác ngoài biển hoặc trốn lánh trên núi hoặc ăn cắp ghe trở về Việt Nam…
Nghe các bạn trình bày vấn đề tôi cảm thấy được nổi khó khăn của ban an ninh và việc phức tạp của tập thể. Cái biên giới của buôn lậu với du đảng, của Cộng sản tỵ nạn với Cộng sản gián điệp mong manh quá, làm sao và bằng cách nào để xác định được. Nếu không khéo người lương thiện bị lầm với ngươi bất lương và ngược lại. Cuộc chiến tranh dai dẳng của đất nước đâu có chấm dứt, nó mãi kéo dài tới Bidong nầy và sẽ còn tới đâu nữa….
Tối nay trời đứng gió. Tôi ngồi tận bên trong nên cảm thấy hơi nóng hầm hập. Cũng lạ, ở tại ghềnh đá nầy có lúc nào mà thiếu gió mát như bữa nay. Dám tối nay có cơn mưa đầu mùa, mây kéo đen kịt cả bầu trời nên không thấy cả một ngôi sao nhỏ. Đối diện tôi, ngồi bên cạnh cửa lều Quách Linh Hoạt tóc dài chấm vai, râu mọc tua tủa. Đèn soi sáng nét mặt xương xương trông anh già cỗi. Hoàn toàn không còn một chút xíu nào hình ảnh đẹp trai oai hùng của một vị sĩ quan hải quân Việt Nam Cộng Hòa. Cạnh tôi, Dân gì đó cũng không khác. Cả hai từ ngày gia nhập vào giới buôn lậu quần áo rách rưới dơ bẩn, nhàu nhò, da dẻ, đen đúa, phong sương. Nhưng nhìn chung Sơn, Út Trung, tôi cũng y vậy. Ở nơi góc biển chơn trời nầy, mọi người giống hệt nhau, không biết ai là ai. Trong đám người lúc nhúc hỗn độn đó, ai là dân biểu, ai là bộ trưởng, ai là bác sĩ, kỹ sư? Ai là thợ thuyền, nông dân hay đánh cá? Tới đây mọi người giống nhau hết. Giống từ hình dáng bên ngoài đến tâm tư tình cảm bên trong. Giống nhau từ hoàn cảnh, số phận, giống nhau từ nỗi long đong. Đảo Bidong như con tàu nhỏ lênh đênh trong biển trời hy vọng, nhưng vùng đất hứa chừng như còn lấp ló chưn mây. Nhưng chừng nào mới tới được cái chưn mây xa lắc xa lơ đó?
Út Trung hỏi Quách Linh Hoạt:
– Hai ông bà định xin đi Mỹ hay Canada? Nếu đi Mỹ là lâu lắm đó..
– Tôi định đi Canada mà bà xã không chịu vì sợ lạnh, bả ốm quá… Tôi xin đi Mỹ theo ưu tiên ba, thành phần công chức quân nhân chế độ Việt Nam Cộng Hòa cũ. Đơn đã được cứu xét, tụi tôi dễ lắm, hồ sơ, quân số còn y nguyên, chỉ cần dò lại cho đúng rồi chờ tới lúc có người bảo lãnh là được… nhưng chắc phải hơi lâu. Có người đã chờ đợi bảy tám tháng nay mà chưa nhúc nhích…
Tư Trần Hưng Đạo xen vô:
– Vậy thì cũng đỡ lo. Lâu bao nhiêu cũng rán. Sợ nhứt là những người không thuộc thành phần được ưu tiên thì mệt. Đợi cho nó hốt rác thì biết đến chừng nào!
Nghe anh Tư nói tới đó, tôi vội nghĩ ngay trong đầu cái danh từ hốt rác thông dụng ở đảo. Chữ dùng nghe tượng hình hết sức. Người tỵ nạn là rác? Ở Bidong nầy còn bao nhiêu rác phải hốt nữa? Ai là người đầu tiên đã có sáng kiến dùng chữ rác rến để so sánh với thân phận tỵ nạn bọt bèo, rong rêu. Thực tế quả là chua xót!
Quách Linh Hoạt phân tách tỉ mỉ:
– Muốn đi Mỹ thì phải có các điều kiện ưu tiên như được thân nhân ruột thịt bảo lãnh: ông bà, cha mẹ, anh em, vợ chồng… Nhưng người được bảo lãnh phải độc thân mới được, còn như có gia đình là không được. Tuy nhiên, nếu người đàn bà đi vượt biên có dắt theo con cái mà chồng còn ở lại Việt Nam thì được kể ưu tiên một, họ được coi như độc thân…
Út Trung cười:
– Thì đúng rồi, không có chồng thì phải kể là độc thân chớ!
Quách Linh Hoạt tiếp:
– Còn như không có thân nhân thì phải là những người đã có làm việc trong các cơ quan của Mỹ trên sáu tháng, trực thuộc quân đội hay dân sự của nhà nước Mỹ. Các cơ quan tư nhân không kể. Mấy người có bằng cấp tốt nghiệp các Đại học Mỹ cũng thuộc ưu tiên thứ hai nầy. Còn ưu tiên ba thì dành cho công chức, quân nhân Việt Nam. Nhưng không phải ai cũng được. Phải có làm việc chánh thức cho công quyền thời hạn tối thiểu là năm năm…
Tư Trần Hưng Đạo cười:
– Ai biểu mình khai thiếu làm chi, cứ khai sáu bảy năm gì đó…
Quách Linh Hoạt nói:
– Các cơ quan tư thì muốn khai thế nào cũng được. Còn công chức quân nhân, hồ sơ lưu trữ đầy đủ, làm sao mà khai gian. Như tụi tôi có số quân, đơn vị phục vụ, tên tuổi vị chỉ huy trưởng…
Dân gì đó bỗng nói:
– Nghe nói có người khai ăn gian gì đó bị Mỹ xù.
Thêm một danh từ lạ của Bidong nữa. Xù có nghĩa là bác đơn, hồ sơ nhập cảnh không được chấp nhận. Trong những ngày mới đến đảo, tôi nghe danh từ nầy phổ biến khắp mọi nơi. Người nầy bị Mỹ xù, người kia bị Úc xù. Lần đầu mới nghe qua, tôi lấy làm lạ, suy nghĩ hoài, không biết chữ xù nầy là do chữ Tây hay chữ Tàu biến âm? Nhiều câu chuyện được truyền tai nhau. Một bà mẹ bồng con nhỏ vào phái đoàn Mỹ phỏng vấn. Ông đại diện hỏi bà bằng tiếng Mỹ có thông dịch viên Việt. Lúc đó đứa nhỏ phát khóc. Bà quýnh quắn dỗ con -‘Nín đi, con khóc ông Mỹ ăn thịt bây giờ’. Người đại diện phái đoàn bất ngờ bật qua nói tiếng Việt rành rọt -‘Người Mỹ văn minh không bao giờ ăn thịt con nít’ Kết cuộc là mẹ con bà Việt Nam ẩu tả đó bị xù! Chuyện chắc là do một người nào đó có óc khôi hài đặt ra để kể cho vui, không lẽ người đại diện Mỹ lại ngây thơ, khờ khạo đến vậy! Nhưng các nhân viên Mỹ biết tiếng Việt rành rọt thì rất thông thường vì đa số đều có một thời gian làm việc tại Việt Nam.
Cạnh lều tôi, có em một ông Tàu già bán cháo gà, tuổi chừng độ hai mươi, hai mươi mốt. Vì muốn được đi Mỹ theo điều kiện độc thân nên anh ta đã khai gian dưới mười tám tuổi, tính kỹ ra năm sanh là 1962. Anh học thuộc lòng và trước sau vẫn xác định là sanh vào ngày tháng đó. Bất ngờ anh được hỏi -‘Sanh năm 1962 vậy tuổi con gì?’ Anh bạn tá hỏa tam tinh, miệng ấp a ấp úng, tính hoài không ra, không biết mình tuổi con trâu hay con dê? Những chuyện dấu đầu lòi đuôi như vậy nhiều lắm, đương nhiên người khai gian dối như vậy sẽ bị xù, phải xin đi nước khác.
Tôi hỏi Dân gì đó:
– Theo em thì tại sao bị bác đơn lại kêu là xù?
Dân trả lời:
– Khi mình đi đánh bài mà không muốn chơi nữa hay chia lộn bài gì đó, xóa bài để bỏ thì kêu là xù bài. Mấy người chơi cờ bạc ưa nói gì đó…
– Hèn chi ở đây người ta hay dùng chữ nầy, đúng quá. Mình vô phái đoàn phỏng vấn để đi định cư y như chơi đánh bài, cũng có chuyện hên xui, gặp lúc tay cái không vui, xù bài thì tay con hết đường cạy gỡ….
Tư Trần Hưng Đạo nhìn tôi rồi nhìn Quách Linh Hoạt:
– Một bạn làm thầy giáo, một bạn làm sĩ quan, cũng có điều kiện để đi… còn tụi tôi tính đi tính lại không có được chút xíu nào hết, nước nào cũng xù thì kẹt dữ…
Sơn nói giỡn chơi:
– Thì lúc đó mình lên núi kiếm cây, đóng ghe trở về Việt Nam… làm một chuyến vượt biên ngược lại…
Tư Trần Hưng Đạo la lên:
– Thôi, đừng giỡn chớ bạn, tôi vượt biên một lần là tởn tới già, bây giờ mỗi lần thấy các ghe biển là sợ. Nói chi vừa tới bờ Việt Nam lại thấy một anh công an áo vàng nón cối đứng chờ…
Quách Linh Họat phân tách:
– Nếu bị Mỹ xù cũng còn có Canada và Úc. Hai nước nầy cũng không đòi hỏi điều kiện gì nhiều. Đời sống cũng dễ thở, chắc cũng có chỗ cho anh em mình. Canada mỗi tháng thâu nhận năm trăm người, còn Úc thì tám trăm. Đặc biệt các cô độc thân và đi một mình thì dễ được cứu xét. Nói chung nước nào cũng ưa chọn thanh niên trai trẻ, những người còn đầy đủ năng lực làm việc. Những người già cả, bịnh họan thì khó khăn hơn. Nhưng vì nhân đạo nên cũng có nhiều nước nhận. Tôi thấy nhiều cụ già và người tàn tật được đi Pháp… Mấy người nầy không còn lao động được mà chánh phủ phải nuôi dưỡng… cũng là một gánh nặng cho họ.
Anh nói tới đó, cả bọn ngồi im. Lòng nhân đạo nào cũng có giới hạn, tới mức nào đó thì tình thương sẽ không còn, chừng đó người tỵ nạn Việt Nam sẽ ra sao? Câu trả lời thiệt khó. Đêm chừng đã khuya, Quách Linh Hoạt va Dân gì đó phải đi đến điểm hẹn để nhận hàng, nên cả hai đứng dậy từ giã. Bóng tối nhạt nhòa. Tôi theo ra đứng ở cửa lều, từ trên cao nhìn xuống thấy những lùm cây đen đủi. Hai người len lỏi đi dọc theo mé nước, trông nhỏ xíu cô đơn, chỉ phút chốc mất biệt trong bóng đen hun hút. Bất ngờ, tôi nghe tiếng còi tàu bịnh viện Ile de Lumìère hụ lên từng hồi dài. Tiếng còi vang lên lanh lãnh giữa biển trời đêm nghe có gì hối hả, gấp rút. Các bạn trong lều cũng túa ra để nhìn. Út Trung mắt sáng nên thấy trước
– Ủa, ủa, chiếc tàu Pháp giờ nầy hụ còi tính đi đâu. Nó đang di chuyển từ từ…
Quả nhiên tôi thấy những ngọn đèn tàu di động. Đúng rồi, tàu đang đi. Mà tại sao lại đi ban đêm như tối nay? Tôi quay qua hỏi anh Tư.
Tư Trần Hưng Đạo đoán:
– Có lẽ nó thiếu nước uống hay thực phẩm, đi qua Trengganu để được tiếp tế, sáng mai trở về… Không phải về Pháp đâu, nếu không ở Bidong nầy nữa thì cũng phải thông báo từ giã chớ. Mới đến có vài tuần mà….
Tôi cũng nghĩ y như vậy nhưng không biết vì lẽ gì nó lại nhổ neo đi. Chỉ trong phút chốc nó đã khuất sau ghềnh đá. Trên mặt biển đen ngòm, bây giờ không còn một bóng đèn nào. Xung quanh cầu tiếp liệu và dãy nhà kho những tia đèn vàng vọt leo lét không đủ sức xuyên thủng màn đêm. Bidong ban ngày ồn ào nhưng ban đêm lạnh tanh. Đúng là trái ngược. Sơn cũng đã về. Tôi ở lại lều để ngủ. Tối nay có anh Tư và Út Trung…
Đến giữa khuya, trời bắt đầu nổi cơn giông. Rồi những giọt mưa nặng hột rào rào trên nóc lều. Rồi gió lốc từng cơn. Lều vặn mình kêu răng rắc. Tôi nằm trên mặt sàn cây, lắng nghe tiếng gió ù ù tưởng như có đoàn xe bọc sắt hằng ngàn chiếc rầm rộ chạy bên vách. Biển bắt đầu nổi sóng gầm thét dữ dội như con cọp bị thương vùng vẫy lồng lộn. Gió điên cuồng thổi muốn vỡ tung nóc lều. Anh Tư nằm sát vách bị ướt, lần lần xích vô giữa để tránh những giọt nước bắn xuyên qua vách mùng. Gió dữ quá nếu cứ kéo dài thêm chút nữa, lều dám sập lắm. Bên trên những túi nước lớn đọng vũng trên nóc ny lông, chảy dội xuống ào ào, khiến ba đứa tôi phải cuốn vội mùng mền tránh dột. Một góc lều đã bị thổi tung. Tôi chạy lại đứng ôm gốc cột, tay nắm chặt mí bao ny lông dừng vách, miệng la oai oái:
– Coi chừng nóc lều bay mất…
Một phần nóc đã bị phá, gió thổi bay phần phật. Út Trung leo lên nắm được mí vải trì xuống. Anh Tư kiếm được một cây đòn dài, đứng phía dưới chống lên các túi nước đọng. Khối nước được đẩy lên cao chảy ra tràn hai bên, khiến các túi nước kế phồng to ra trũng xuống. Anh phải đẩy các túi nước kế tiếp tục…. Bidong bị cơn bão lớn đầu mùa mưa. Sóng dữ dội, đập muốn vỡ tung ghềnh đá. Các ghe Mã Lai nhỏ chở thực phẩm của Liên Hiệp Quốc bị dập dồi, tung vô cầu supply ầm ầm. Tiếng la hét của các thủy thu vang lồng lộng trong gió. Các lều kế cận có chiếc đã bay mất nóc, có chiếc xiêu vẹo. Ào, một cơn lốc mạnh, nóc lều bị đứt dây bung ra bay dạt đâu mất. Ba anh em bị nước mưa chảy trên đầu trên cổ, ướt mem, lạnh ngắt, bèn chạy núp mưa ở lều phía sau. Chiếc nầy may mắn còn nguyên nhờ nép mình dưới một khối đá đồ sộ, hai bên có các lều vây quanh che kín. Cả một bầu trời ướt sũng nước, mưa to gió lớn như cơn hồng thủy. Bidong tưởng chừng như sắp bị mưa to gió lớn cuốn trôi. Mưa như trút nước giăng kín cửa lều, phía trước nước chảy thành dòng, cuồn cuộn như thác lũ.
Chiếc lều của anh Tư bây giờ chỉ còn cái sườn cây, kèo cột trơ vơ. Tôi bỗng chợt nhớ Dân gì đó với Quách Linh Hoạt, bèn kêu lên:
– Chết cha rồi, xui quá!
Tư Trần Hưng Đạo đứng nhìn mưa kế bên, tưởng tôi sợ cái lều bị hư nên nói:
– Cũng may nó bị thổi tróc nóc mà không sập. Để mai mua nóc, mua vách mình lợp lại…
Út Trung cũng nói:
– Dễ lắm, chỉ cần cột dây kẽm thêm cho kỹ. Kỳ nầy mình cột thiệt chắc, để tôi làm cho… nếu có bão nữa thì yên chí, không thể nào đứt được.
Rồi Trung nói tiếp:
– Bão ở Bidong lớn quá, điệu nầy mấy ngàn cái lều đều bị bay nóc, cây cối gảy đổ, tàu bè hư hao. Hèn chi chiếc Ile de Lumỉère biết trước, nó dời qua núp bên kia đảo để tránh gió…
Biết hai bạn đã quên mất việc quan trọng hơn, tôi vội nói:
– Mưa gió, bão bùng như vầy. Dân gi đó với Quách Linh Hoạt kẹt giữa rừng núi làm sao xoay trở? Phải chi biết trước đừng đi…
Bên ngoài sấm sét chớp sáng lòe, nổ rách tung màn đêm thăm thẳm. Qua lằn chớp tôi thấy những sợi mưa bay ngang bay dọc và tưởng tượng ra ở dưới bãi Sang Đồ lúc nầy, trong bóng đêm dầy đặc như bưng lấy mắt, một nhóm người lầm lũi khiêng vác những kiện hàng, âm thầm như những bóng ma len theo đường mòn, xuyên qua vách núi đá trơn trợt… Rồi gió, rồi mưa. Những dòng nước chảy xiết như thác, những cành cây gãy gục, những tảng đá nứt lăn xuống triền dốc… nước lạnh ướt đẩm, gió buốt thấu xương…
Tôi lẩm bẩm:
– Thế nào thằng Dân gì đó cũng bịnh. Hồi chiều thấy nó ốm xác xơ, làm sao chịu đựng nỗi cơn bão đầu mùa nầy!
Út Trung im lặng nhìn mưa ào ạt nãy giờ, cũng góp ý:
– Hy vọng là biển nổi sóng từ đầu hôm, mấy ghe buôn không chèo ra khơi được. Biết đâu Quách Linh Hoạt với Dân gì đó cũng đã trở về rồi… Hai người đi cũng khoảng chín mười giờ, còn bão bắt đầu từ nửa đêm…
Nghe Trung nói tới đó, tôi bỗng giựt mình. Dân gì đó với Quách Linh Hoạt dầu gì thì cũng ở trên bờ, vất vả cực khổ cách mấy cũng còn chịu được. Trong khi đó, các tay buôn lậu đang chèo ghe trên biển mà gặp sóng dữ thì nguy. Chiếc ghe nhỏ xíu như cái hòm cây sẽ bể tung ra từng mảng… Đêm nay trong cơn bão bùng, bao nhiêu chiếc ghe buôn lậu Bidong gặp cơn nguy khốn cùng cực trên biển cả? Mười chiếc, hai mươi chiếc hay nhiều hơn nữa? Rồi số phận của những con người khốn khổ đó ra sao?
Gió vẫn còn thổi ào ào từng cơn nhưng đã dịu hơn lúc nãy. Mưa cũng đã dứt hột. Trời đêm lạnh teo ruột. Cũng may tôi mặc một cái áo vãi dầy. Chị chủ nhà lấy cho Út Trung mượn một cái áo khoác ka ki bận thêm cho ấm. Cây đèn cầy nhỏ bằng ngón tay cái bị gió tạt, ngọn lửa cháy le lói chỉ chực tắt, một dòng sáp đỏ chảy tuôn thành đống một bên, chừng một thời gian ngắn nữa nó sẽ tàn lụi… Người đàn bà ốm yếu quay trở về ngồi bên ánh đèn chập chờn tay chống bên mặt, hai đứa con nhỏ vẫn ngủ mê man. Đã năm sáu tháng nay chị trông đứng trông ngồi người người bà con bên Pháp gởi cho giấy bảo lãnh. Thơ đi thì có mà thơ về thì chưa. Một ngày chờ đợi ở Bidong là một ngày mòn mõi. Chị sẽ còn phải chịu đựng bao lâu nữa… Niềm hy vọng mong manh như ngọn nến!
Đã ba giờ sáng, cơn bão đã qua, mưa gió bớt dần. Những sợi mưa bay li ti như bụi. Liệu không còn tiếp tục sửa chữa gì được căn lều tróc nóc, chúng tôi chia tay nhau kéo về lều nhà. Trong ánh sáng lờ mờ, cả một bãi biển tan hoang xơ xác. Lều nào cũng bay mất nóc, cột kèo xiêu vẹo, đồ đạc vật dụng bay tứ tung vương vải. Những thân dừa gảy đổ, nằm chắn ngang lối đi, tàu lá rụng nằm đầy trên cát. Tôi co ro đi len theo mé biển, toàn cảnh hoang vắng rợn người. Bidong báo hiệu mùa mưa bắt đầu bằng cơn bão lớn. Tôi về tới lều, may quá nhờ nằm ở vị trí khuất gió nên lều còn nguyên. Chỉ vài tiếng nữa là trời sắp sáng. Không biết giờ nầy Dân gì đó với Quách Linh Hoạt đã về tới nhà chưa? Sáng mai sớm phải ghé thăm hai bạn đó mới yên bụng. Vì đã quá giấc, tôi không ngủ được nữa, nằm trên mặt sàn cây lồi lõm, nghĩ ngợi miên man…
Xung quanh toàn là những chiếc lều mong manh, những con người khốn khổ nương tựa nhau mà sống. Bidong nắng lửa, mưa dầu. Bidong mưa gió ầm ầm như cơn hồng thủy. Nhưng gió bão của Bidong là do thời tiết đất trời, còn gió bão ở Việt Nam là bão của lòng người. Lòng người nham hiểm, tàn độc, tham lam như cơn bão dữ, tàn phá quê hương không một xót thương. Sau cơn hồng thủy ở quê hương tù ngục, người người vượt qua biển lớn bám vô đảo Bidong, như chưn lều Tư Trần Hưng Đạo bám vô ghềnh đá cheo leo, để trông chờ vùng đất hứa. Nhưng niềm hy vọng vẫn còn xa biền biệt…
Người tỵ nạn Việt Nam phải còn chịu đựng bao nhiêu cơn bão thử thách nữa mới thấy được những tia sáng hy vọng le lói ở cuối chưn mây?
Chương 24
TIẾNG SÓNG REO VUI
Mới chừng bảy giờ sáng là tôi đã ba chưn bốn cẳng vọt ra cầu tàu, đứng lóng nhóng ở dưới gốc dừa, mắt nhìn tuốt biển khơi để tìm coi có chiếc ghe nào đang trên đường ra đảo. Tôi cũng đâu biết hình dáng, màu sắc nó ra sao nhưng cứ chờ vì cái tin hấp dẫn được loan ra trên loa phóng thanh tối hôm qua. Sáng nay có phái đoàn Canada đến. Ở cầu tàu người đợi cũng đông nghẹt, đâu phải chỉ mình tôi. Mỗi lần hễ có tin phái đoàn phỏng vấn đến thì toàn đảo như lên cơn sốt. Người ta xúm nhau bàn tán, theo dõi lo lắng, chuẩn bị và hồi hộp chờ đợi. Tin tức được loan báo qua hệ thống loa phóng thanh treo dọc theo các gốc dừa rải rác quanh khu vực định cư. Hôm đảo bị cơn bão đầu mùa, nhiều thân dừa gãy đổ khiến dây điện đứt tứ tung, toàn thể hệ thống phát thanh bị tê liệt. Không còn loa nào nói được nữa thì lấy gì để nghe, ai nấy có tai mà như điếc. Cả trại im lìm. Không nghe giọng oanh vàng của cô nhân viên léo nhéo hằng ngày, dân tỵ nạn buồn bã ra mặt. Làm sao để tìm kiếm thân nhân thất lạc, làm sao biết ngày giờ lãnh nước uống, lãnh thực phẩm, làm sao biết có thơ từ phương xa và quan trọng nhứt là làm sao biết tin tức của các phái doàn phỏng vấn. Bỏ trễ một kỳ là phải chờ đợi thêm một khoảng thời gian chừng một hai tháng nữa. Có một anh vì không nghe loan báo giờ giấc đi phỏng vấn, đúng vào cái ngày quyết định số phận của thuyền nhân, anh ta vác cưa, vác búa lang thang leo núi đốn củi. Đến chiều về, hay ra mọi sự lỡ làng hết, chỉ còn biết đấm ngực kêu trời!
Buổi sáng trời còn mát nước biển trong xanh. Trên bãi cát vàng còn dấu nước ướt ban đêm, dâng cao lên tận gốc dừa.Tôi ngó qua bên đất liền, thấy trời đất xa mù mù. Từ bên đó muốn qua tới đảo, phải mất hai ba tiếng đồng hồ trên biển. Không lẽ phái đoàn thức dậy lúc bốn năm giờ sáng, rồi còn điểm tâm cà phê cà pháo rềnh ràng. Tôi lẩm nhẩm tính, họ đến đảo sớm nhứt chắc cũng phải cỡ mười giờ, không thể sớm hơn. Nào ngờ mọi suy tính đều trật lất hết trơn. Chung quanh có tiếng xôn xao, rồi mọi người chỉ chỏ. Tôi rán nhìn, thấy tận đằng xa một chiếc ghe Mã sơn xanh đang phăng phăng tiến vô đảo. Thiệt tình tôi chưa phân biệt được ghe chở tiếp liệu hay ghe phái đoàn. Có tiếng nói lớn của người bên cạnh:
– Ghe phái đoàn Canada bà con ơi, lá cờ trên cột bườm…
Vậy là đúng rồi, không cần phải ngó thêm nữa tôi vội vã quay lưng đi về để báo tin cho ở nhà chuẩn bị. Phái đoàn tới đảo sớm quá, chưa tới tám giờ. Sao bữa nay ở khu chợ tròi, người ta lại quá đông, đen nghẹt cả đường xá. tôi phải chen lấn mà đi, trong bụng hồi hộp hết sức, những chữ Canada, Canada, Canada vang vang trong đầu. Tự nhiên trong những ngày tháng ở đảo Pulau Bidong nầy, cái tên gọi Canada hình như có một sức thu hút mầu nhiệm, hễ có ai nói đến nó, dầu đang làm gì tôi cũng rán chú ý lắng nghe. Có lần chợt thấy một thùng sữa bột mang nhãn hiệu của xứ nầy, tôi đứng ngây người nhìn mê mẩn rồi tưởng tượng ra những cánh đồng cỏ phì nhiêu, từng đàn bò hàng ngàn con đang thong dong nhai cỏ… Đời tôi và Canada từ hôm mở hố sơ Cao Ủy bắt đầu gắn bó từ từ như có duyên nợ từ đâu kiếp trước. Hình như Đức Phật có lần đã nói: -tương lai mỗi người là do ý niệm tác thành. Không có ông trời nào rảnh rỗi mà mà sắp xếp vẽ vời định mạng cho từng cá nhơn. Tương lai của mình là do chính mình định lấy. Mỗi người có một ý niệm về cuộc sống và cái ý niệm đó hướng dẫn tất cả mọi hành động. Do ý niệm mà chọn lựa, do chọn lựa mà hành động, rồi do hành động mà kết quả sẽ thành. Trồng dưa thì được dưa, chớ hổng lẽ được đậu xanh hay đậu đỏ!
Mà tại sao tôi lại quyết định chọn Canada để định cư? Thiếu gì những nước khác giàu sang trù phú hơn, như Huê Kỳ chẳng hạn? Có rất nhiều lý do để giải thích, nhưng lý do chánh đáng nhứt là Canada thâu nhận người tỵ nạn dễ dàng không đòi hỏi những điều kiện khó khăn như Mỹ hoặc Úc. Khi được nhận rồi thì đi rất lẹ không phải chờ đợi lâu lắc. Ở lại Bidong một ngày thì khổ thêm một ngày. Bỡi vậy thiên hạ mới phải kêu trời mà đặt cho nó cái tên Buồn Lâu Bi Đát. Cũng có thể do một nguyên nhân xa lơ xa lắc nào đó khá mơ hồ. Như lời bàn cụ Diễn, như lá xâm chùa Ông Bổn ở Bạc Liêu trước khi vượt biên mãi ám ảnh trong đầu, -‘Ông sẽ đi về phương Bắc sinh sống vất vả, ở đó khí hậu khắc nghiệt, tuyết đóng quanh năm, cỏ mọc vàng khè, tất cả đều đổi thay…
Đi về một xứ phương Bắc để sinh sống thì là Canada chớ gì, đâu thể là Hoa Kỳ hay Úc Đại Lợi. Mấy nước Bắc Âu như Na Uy, Phần Lan, Đan Mạch phải chờ năm ba tháng mới có phái đoàn tới, mà người tỵ nạn được thâu nhận cũng rất ít ỏi.
Tôi về tới lều hối mấy em ăn sáng cho xong, sửa sọan mặc quần áo vừa bước ra ngõ là tiếng loa phóng thanh đã kêu tên đi phỏng vấn. Lẹ thiệt! Bộ mấy nhân viên của phái đoàn Canada nầy không cần nghĩ ngơi gì hết, mới vừa tới đảo đã bắt tay vào làm việc ngay sao! Cả đám anh em tôi vừa được nghe kêu tới tên, mừng rỡ hối hả đi ra hội trường. Tôi bất chợt tự nhiên có cảm giác như được Canada thâu nhận, sung sướng nôn nao, trong bụng hồi hộp hết sức, hai chưn bước đi thoăn thoắt, Duyên bồng Bi đi theo muốn hụt hơi. Trước cửa hội trường bây giờ là một rừng người xao động, di chuyển bao quanh lấy văn phòng hành chánh. Đông quá là đông. Ai cũng cố ngóng cổ nhìn tuốt vô bên trong, để tìm coi mấy nhân viên phái đoàn Canada mới tới, họ làm việc ở chỗ nào, mặt mũi hình dáng ra sao? Nào có thấy gì đâu, ở ngoài hành lang chỉ có mấy anh trật tự đứng canh chừng ngó trước ngó sau. Nơi đây người ta cũng đang chen lấn, giành giựt nhau để được vô trước. Tôi nắm lấy tay Duyên định tìm một chỗ trống để chen chưn. Chợt một bàn tay lạ nắm tôi kéo lại, ngó xéo qua thì là Tư Trần Hưng Đạo. Chưa kịp chào hỏi, thì anh Tư đã nói:
– Chen lấn chi cho mất công, ghe mình chưa tới phiên, phải đợi lúc một giờ buổi chiều.
Tôi ngạc nhiên nói:
– Sao kỳ vậy, vừa mới đây loa phóng thanh kêu một danh sách lên phỏng vấn sáng nay có tên anh em tụi tôi rõ ràng mà.
Tư Trần Hưng Đạo cười hà hà:
– Thì cũng mới vừa đây nó đính chánh lại. Buổi sáng nay phái đoàn chỉ cứu xét những trường hợp khiếu nại kỳ trước, buổi chiều mới phỏng vấn những ghe mới tới như tụi mình.
Tôi hỏi lại:
– Vậy mà cứ lo chen lấn, tôi có nghe thấy gì đâu. Mà anh có nghe kỹ không?
Tư máy cày chưa kịp trả lời thì anh trưởng ban trật tự từ bên trong đi ra, tay cầm loa phóng thanh tự động loại nhỏ, loan báo chính thức tin tức phỏng vấn những người mới tới sẽ vào buổi chiều. Tôi thất vọng tiu nghỉu đi ra, đứng ngó quanh ngó quất đám đông lao xao một hồi, rồi cùng vợ con dắt díu, lủi thủi ra về. Cái xứ mơ ước Canada đầy tuyết băng, giá lạnh đâu chưa thấy, chứ bây giờ Bidong nắng hoa vàng trước mắt, nắng nóng như muốn chui qua dép nướng phồng da chưn…
Trở về ăn cơm xong, tôi lại chuẩn bị để đi trở ra. Trời vào ban trưa nóng dữ dội. Tôi cầm cái quần dài đen giũ ra cho thẳng thớm, trong bụng ngao ngán hết sức. Hơi nóng hầm hập từ trên cao đổ xuống chưa gì mà mồ hôi đã chảy ướt lưng. Thôi bận cái quần được rồi, còn áo thì cầm tay khi nào tới nơi, bận vô cũng vừa. Duyên lựa cho Bi cái quần tây ngắn có dây tréo trên vai, để thằng nhỏ ở trần cho mát. Đoạn đường trở ra hội trường giờ đây thưa thớt nên dễ đi, giữa trưa mọi ngươi đều rút vô lều để trốn nóng, đâu có ai đủ can đảm đứng phơi đầu dưới ánh nắng chói chang miền nhiệt đới…
Tuy vậy nơi hội trường cũng đã chật ních người ta. Đám đông còn nhiều hơn buổi sáng. Tôi cứ tưởng tới giờ nầy là quá sớm nào ngờ lại khá trễ. Những người tới trước lũ lượt giành chỗ đứng sắp thành hàng dài. Hình như phái đoàn không nghỉ trưa và làm việc liên tục từ sáng cho tới giờ. Tôi, Duyên và mấy em bước vào hàng, làm cho cái đuôi chờ đợi dài thêm chút nữa. Bên ngoài hàng rào cây, đứng lố nhố những người ngoại cuộc, có thể họ chưa được phỏng vấn đợt nầy, có thể họ không chọn Canada mà là những xứ khác. Họ đến đây để coi chơi cho biết một cuộc phỏng vấn để đi đệ tam quốc gia là như thế nào. Vì trước sau gì cũng một ngày tới phiên mình. Tôi đưa mắt nhìn quanh thấy tụ tập ở góc sân là các bạn đi cùng ghe. Dân thủy thủ phục phịch trong chiếc áo sơ mi trắng cụt tay, bên cạnh là tài công Hốt đang nói chuyện cùng với Hủ Tiếu, tài công mặt rỗ. Quách Linh Hoạt đứng với Nhựt Bổn cùng A Son, A Tài, Tô Tỷ. Còn Út Trung và Sơn quơ tay với tôi cười cười, ý như muốn chúc may mắn. Tôi mong cho mau tới phiên, trong lòng cứ tin tưởng là mình sẽ được nhận. Không biết tại sao tôi lại lạc quan như vậy?
Rốt cuộc rồi cũng tới. Tôi và Duyên bồng Bi bước vô. Đứng ngoài nắng khá lâu ánh nắng chói chang lóe mắt nên khi bước vô trong mát, tôi thấy bốn bên tối sầm. Phải mất một lúc sau mới thấy rõ lại. Trong phòng có hai nhân viên người Canada phụ trách việc phỏng vấn, ngồi ở hai bàn giấy cách xa nhau chừng ba thước. Một ông mập mạp tuổi chắc đã già và một ông ốm cao còn trẻ. Tôi được hướng dẫn đến bàn ông già. Thôi vậy là số phận mình do ông già mập nầy định đoạt. Người ông to lớn, đồ sộ, cái ghế hình như quá nhỏ, dáng ngồi coi không thoải mái. Không biết nhờ đâu ông có được cây quạt bằng lá cọ, tay cầm quạt liên hồi. Chiếc áo sơ mi trắng được mở phanh ngực, mồ hôi nhỏ giọt, cả người ông từ mặt mày tới ngực, tới tay, ướt đẩm như vừa từ trong hồ nước bước ra. Ông vừa quạt vừa thở, làn da đỏ ửng sần sùi như da gà tây, hơi thở phì phò. Dãy nhà hội trường nầy lại được lợp bằng tôle dợn sóng nên hơi nóng từ trên mái thấp hắt xuống như trong cái lò nung. Trong phái đoàn phỏng vấn gồm có nhân viên an ninh, thơ ký hành chánh, người thông dịch, còn có ban quản trị trại và một số đông nhân viên Việt Nam… Nội bao nhiêu đó người cũng đã ngộp thở, nói chi thêm số người vào ra phỏng vấn, mỗi lần vô là nguyên cả gia đình. Mà gia đình của Việt Nam mình thì phải biết là nhiều lắm. Con nít sao đông quá là đông. Những anh trật tự an ninh lo chạy tới chạy lui, không kịp thở. Cô thông dịch viên người Việt lai Tàu hỏi tôi:
– Anh chị có cần thông dịch không?
Cô nói tiếng Việt rất rõ và rành rọt nhưng nét mặt nầy phải là Tàu nhiều hơn. Đôi mắt nhỏ, dài và xếch, tóc đen nhánh và còn rất trẻ. Chắc cô gốc học sinh trường Pháp hay Anh gì đó.
Tôi trả lời:
– Dạ, tôi nói được chút ít nếu có gì không hiểu thì nhờ cô giúp dùm!
Cô nói líu lo một tràng với ông già mập. Ông nghe với đôi tai lơ đãng, mắt chăm chú đọc hồ sơ của vợ chồng tôi. Trời! Sao ông già nầy ít nói quá vậy, tôi đâm lo, người nào ít nói thì khó tánh, mà nếu khó tánh thì mình có thể bị ổng xù. Mà hễ bị xù thì phải chờ đợi lâu lắm để được đi xứ khác. Tôi không biết khi đọc qua cái lý lịch sơ sài của tôi, ông nghĩ gì trong đầu, chấp nhận hay không? Đâu có gì rắc rối, tôi chỉ xin qua Canada làm một người thợ, trong mẫu đơn xin, điều ước vọng tôi ghi rõ ràng ‘new worker’ thợ thủ công mới tuyển.
Một hồi ông ngước mặt lên nhìn tôi, dáng hiền lành, hỏi bằng tiếng Pháp giọng lơ lớ khó nghe:
– Ông nói tiếng Pháp hay tiếng Anh?
Tôi mừng quá, trả lời:
– Thưa ông, tôi nói tiếng Pháp, không biết tiếng Anh.
Tới đây tôi không biết nói gì nữa, nên im.
Ông ta nhìn tôi cười:
– Tôi thì chỉ biết tiếng Anh không biết tiếng Pháp. Chắc ông cũng biét chút đỉnh tiếng Anh?
Tôi rán biểu diễn vài câu còn nhớ lỏm bỏm hồi còn học trong cuốn Anglais vivant mấy chục năm về trước, hầu như đã rơi rụng đâu mất hết:
– Dạ, tôi có thể bập bẹ nói vài câu thông thường trong cuộc sống hằng ngày… Nếu được đi học lại, tôi có thể nói khá hơn…
Thấy ông già ngồi im, quạt phành phạch tôi lo quá, nói tiếp một câu lãng xẹt:
– Trường hợp đi lạc, tôi có thể hỏi đường để trở về nhà được…
Ông ta ngừng quạt, mặt đỏ như lò lửa hơi thở như muốn hụt, rán nói chầm chậm giọng nhỏ lại:
– Ông nói tiếng Anh như tôi nói tiếng Pháp…
Rồi không nói gì thêm, ông ta cầm nguyên xấp hồ sơ dở dang trên bàn đưa cho tôi, tay chỉ ra ngoài cửa. Tôi không biết gì hết, tại sao ông ta lại đưa mấy cái tờ giấy nầy rồi lại kêu đi ra ngoài. Cho hay không cho? Sao kỳ cục vậy? Mấy người vô trước khi bước ra khỏi cửa thì biết liền kết quả được hay không được. Còn tình trạng của tôi bây giờ thì không biết ra sao nữa? Tấm thẻ xanh Cao Ủy Liên Hiệp Quốc cầm trên tay mờ nhạt, mắt tôi hoa lên không còn thấy được chữ nào trong đó hết. Cô thông dịch cầm đưa cho ông ta một cái khăn nhỏ nhúng nước, ông đón lấy, xấp đôi lại rồi đắp lên trán. Cô ta quay qua nói nhỏ bằng tiếng Việt:
– Ổng nhận anh chị rồi đó, anh chị ra ngoài một chút xíu rồi vô trở lại.
Tôi đứng dậy cùng vợ con đi ra, đứng ngoài ngạch cửa, trong bụng phân vân. Ông già mập nầy kỳ cục thiệt. Nhận thì nhận, không nhận thì xù, sao lại nữa chừng kêu ra ngoài nầy làm gì? Rồi mình phải đứng đây bao lâu nữa?
Bên ngoài vòng rào Tư Trần Hưng Đạo, Út Trung làm dấu quơ tay để hỏi. Ai cũng thắc mắc trường hợp của tôi. Tôi đưa hai tay lên cao nửa chừng rồi lắc đầu. Buổi trưa đông người chen lấn, ngoài sân cát bụi mịt mù. Tôi đứng sững bên gốc cột, không còn biết nóng lạnh gì nữa hết. Bên bàn ông ốm, hai cô em gái đã được nhận, mặt mày hí hửng, nắm tay nhau cười nói ríu rít đi ra, gặp tôi ở ngạch cửa:
– Tụi em đã được nhận rồi, còn anh chị thì sao?
– Anh không biết, ổng không nói gì hết đưa cho xấp giấy nầy rồi kêu đứng đây chờ…
Cô em út chỉ vô trong, cũng bàn ông ốm:
– Anh Tiến với chị Tuyết đương được phỏng vấn kìa, chắc cũng được chấp nhận vì cô thông dịch viên là bạn học ở Y khoa.
Tôi ngó vô thấy hai em đang nói chuyện với ông ốm, dáng điệu thoải mái, cười nói vui vẻ. Tụi nhỏ nầy lanh lẹ thiệt, còn mình chậm lụt quá, chuyện gì cũng rắc rối khó khăn. Rồi một hồi sau, ông ốm vừa nói chuyện vừa cầm xấp giấy ký lia lịa. Tôi quay qua Duyên:
– Hai đứa nó cũng được nhận rồi kia kìa, tụi em cũng được đi Canada hết, còn vợ chồng mình xui xẻo, gặp ông già kỳ cục, không biết ra sao nữa đây?
Bên trong ông mập đã làm việc trở lại, tôi chuẩn bị để vô. Nhưng một người đã vô trước. Cuộc phỏng vấn ngắn ngủi, ông ta ký tên chấp nhận, người được nhận vừa đứng lên, tôi chưa kịp bước vào trong thì đã có một người khác từ đâu không biết, len giành ngồi vào ghế. Thôi đành chờ! Một người xong rồi tới người khác.. Rồi người khác xong, lại tới người khác nữa. Tôi lo lắng hết sức, cứ điệu nầy làm sao tới phiên? Người ta đã tràn ngập, mạnh ai nấy chen lấn. Tôi để ý theo dõi, hình như những người được vô đều do các anh em trật tự sắp xếp, chắc những người đó là bà con thân nhân của họ, nên được vô một cách dễ dàng. Tôi chen không lại nữa. Mỗi lần thấy một người được chấp nhạn đi ra, mặt mày hí hửng, lòng tôi nóng như lửa đốt, trong bụng tự hỏi chừng nào mới tới phiên mình? Mặt trời đã nghiêng xuống từ từ, trời sắp về chiều, chỉ còn một tiéng đồng hồ nữa là phái đoàn ra về. Họ chỉ làm việc ngày hôm nay rồi phải chờ đúng một tháng sau mới đến nữa. Làm sao bây giờ? Chỉ còn một tiếng đồng hồ ngắn ngủi, nếu hỏi lẹ lắm chỉ được chừng bốn, năm người nữa thôi. Tôi nhìn lại số người vây quanh, họ đông cả hai ba chục gia đình… Tôi quính quáng. Phải tìm cách chun vô trở lại, trước giờ về của phái đoàn, nếu không thì kẹt lắm. Rời Bidong trễ một ngày là khổ cực thêm một ngày.
Bỗng Duyên nắm lấy tay tôi nói:
– Thằng Dân gì đó cũng được nhận rồi kìa.
Tôi chợt nhìn theo tay chỉ, Dân gì đó nhăn răng vàng cười khì khì, từ trong phòng lều khều đi ra. Cái thằng coi vậy mà số đỏ. Bữa nay ngày trọng đại, nó không còn bận cái áo kaki cũ xì nữa mà khoác một cái áo sơ mi xanh lợt, cái quần màu vàng coi cũng khá đẹp trai. Tôi nắm lấy tay nó:
– Dân được nhận rồi hả?
Nó trả lời mặt tươi rói:
– Ừa, ừa, ổng ký tên cho đi gì đó rồi. Em run quá, tiếng Việt mà em cũng nói không được gì đó….
Tôi tức mình, thằng Dân gì đó tiếng Tây không biết, tiếng Anh không biết, luôn cả tiếng Việt cũng… dám không biết. Vậy mà ông già mập lại ký tên cho đi liền, còn mình… dầu sao cũng khá hơn nó một chút, mà phải đứng đây chờ trên cả giờ rồi, cũng chưa biết là được hay không?
Tôi nhìn nỗi sung sướng hiện lên trên mặt nó mà đâm phát khùng. Lại thêm một người nữa được nhận, chạy tuôn ào ra mừng rỡ la hét vang rân. Tôi chết điếng. Bóng nắng đã chiếu xiêng khiến bóng đọt dừa ngã xấp xuống vách lều bên hông trại. Đúng sáu giờ, phái đoàn sẽ lên ghe để về bên Trengganu… một tháng sau mới trở qua. Phải chi một hai tuần cũng rán đợi được, một tháng là ba mươi ngày, lâu quá!
Dân nó cười hì hì một hồi rồi mới hỏi vợ chồng tôi:
– Chắc anh chị cũng được Canada nhận gì đó?
Tôi phát đổ cộc ngang xương:
– Nhận cái khỉ khô, khi không đưa cho mấy tờ giấy nẩy rồi biểu ra đứng ngoài nầy chờ, chờ hoài, bây giờ muốn trở vô lại không được. Còn một tiếng đồng hồ, ai cũng sợ trễ nên chen lấn dữ quá, anh chị có cháu nên giành không lại.
Dân gì đó không cười nữa, nhìn tôi:
– Vậy mà hồi nãy tới giờ anh không nói gì hết, em đâu có biết. Để em nói cho anh vô gì đó.
Nghe Dân gì đó vừa nói xong, tôi vừa mừng vừa ngạc nhiên:
– Làm sao mà vô được, em biết cách gì giúp anh chị với, em quen với ai vậy?
Dân gì đó trấn an tôi:
– Dễ ợt, tưởng chuyện gì khó em làm không được, chớ chuyện vô phái đoàn gì đó em làm cho anh coi.
Trời, thằng này ngon lành thiệt. Đã mấy tiếng đồng hồ rồi, tôi muốn điên lên vì chờ đợi, nghĩ hoài không ra cách nào để giải quyết. Nó mới vừa nghe xong, nói dễ như chuyện giỡn chơi. Nhưng Dân gì đó đâu có giỡn chơi. Nó vừa nói vừa đi trở vô trong, không đầy năm phút sau nó cùng anh trưởng ban trật tự bước ra kiếm tôi. Anh chào tôi và nói:
– Mình chờ cho người nầy vừa được phỏng vấn xong là tôi đưa anh chị vô.
Tôi cám ơn anh ta và hỏi:
– Anh trưởng ban và Dân có quen nhau?
Anh nói:
– Tôi và Dân có lần đi buôn chung nhau nên quen biết. Hồi nãy tôi dắt nó vô đó, tiếc quá, vì tôi không biết nên để anh chị phải chờ.. Đợt rồi, không ai chịu đi Canada hết, đợt nầy lại ghi tên quá đông nên phải chen lấn…
Tôi mừng hết sức và chợt cảm thấy mình… dở ẹt. Chuyện dễ như trở bàn tay. Dân gì đó làm cái một, trong khi tôi loay hoay hoài mà không biết phải giải quyết phải ra sao. Tôi tin sau khi định cư, lăn lộn vào cuộc sống Dân gì đó sẽ thành công hơn tôi xa lắm. Những đứa trẻ nhà nghèo, từ nhỏ phải đối phó với muôn vàn khó khăn trong cuộc mưu sinh, trở nên tháo vác, khôn ngoan hơn những đứa sống trong vòng tay thương yêu đùm bọc của mẹ cha cùng với tất cả những tiện nghi đầy đủ. Nói như vậy để tự biện hộ cho những cái dở của tôi, chớ thiệt ra cũng có những người xuất thân từ những gia đình giàu có, sang trọng mà cũng khôn ngoan, lanh lợi dàng trời!Cuối cùng rồi tôi cũng gặp lại ông mập. Trời đã về chiều, khi hậu trở nên dễ chịu hơn, mặt ông ta bớt đỏ. Mồ hôi cũng không còn tươm ra như lúc ban trưa. Khi tôi đưa xấp giấy trở lại ông cầm lấy, không nói thêm tiếng nào, cắm đầu ký tên hết tờ nầy đến tờ khác. Ông cầm viết tay trái, bàn tay to như nải chuối sứ, cầm cây viết quay ngược hý hoáy một hồi lâu. Tôi vốn là thầy giáo, thấy cách cầm viết của ông thiệt là ngược ngạo, trong bụng nghĩ thầm làm sao mà ông ta viết được, cũng may là ông ta không đi học ở Việt Nam, nếu có thì thế nào cũng… bị đòn! Tôi lén nhìn qua Duyên thấy mắt nàng sáng lên. Nàng ngó tôi cười. Tôi rất mừng Như vậy là ông ta đã nhận tôi và vợ con vào Canada. Trong thoáng chốc tất cả lo âu từ trước tới giờ tiêu tan hết. Trong tôi chỉ còn một nỗi vui sướng chất ngất. Vậy là tôi được Canada nhận rồi. Mọi khó khăn đã chấm dứt. Bây giờ chỉ còn chờ ngày rời đảo nữa thôi.
Xấp giấy đã được ký xong, ông mới ngẩng đầu lên nhìn tôi nói:
– Ông bà và cháu bé đã được thâu nhận định cư ở Canada. Ông ký tên vào các tờ giấy nầy.
Ông đẩy xấp giấy qua cho tôi. Tôi ký một hơi bốn, năm tờ gì đó, không kịp đọc qua coi mình đã ký những gì. Khi mọi thủ tục xong xuôi, ông ta nhìn Bi ngơ ngác đôi mắt thỏ, buột miệng khen cậu bé to con và đẹp trai. Tôi cám ơn ông đã giúp đỡ cho vợ chồng tôi và ngõ ý sung sướng được định cư ở đất nước của ông. Tự nhiên tôi cảm thấy ông già mập nầy dễ thương hết sức! Trước khi bước qua bàn kế bên để điều tra chánh trị, ông ta hỏi hồi tôi ở Việt Nam làm nghề gì. Nghe tôi trả lời, ông lắc đầu an ủi -‘Vậy là phải đổi nghề khác rồi’. Ông đưa tay từ giã và chúc may mắn. Lòng tôi vui như mở hội. Tôi đứng dậy cùng Duyên bước qua bàn kế. Người hỏi mới còn trẻ, dáng nghiêm nghị, nói tiếng Pháp, chỉ hỏi có một câu:
– Trong thời gian làm giáo sư, ông có dạy học cho Cộng sản không?
Tôi trả lời liền -‘Không có’. Ông ta đưa tôi ký thêm vài tờ nữa trong đó có giấy khám sức khỏe. Mọi việc xong xuôi, tôi bước ra ngoài, bước đi nhẹ như bông gòn. Ôi! nắng chiều Bidong sao mà đẹp quá vậy! Một nỗi sung sướng tràn ngập đầy ứ trong tim, trong phổi. Tôi vừa đi vừa tưởng tượng vùng đất Canada lạ lùng mà tôi sắp được đến. Một tương lai mới tinh mở ra trước mặt và mọi sự phải bắt đầu trở lại từ con số không.
Tôi bước ra cửa đưa mắt nhìn ra ngoài. Ở nhà chờ đợi dựa vòng rào, các bạn bè nhốn nháo dòm vào để nghiên cứu tình hình, bàn tán xôn xao.Tôi thấy anh chị Tư Trần Hưng Đạo, Sơn, Út Trung, Chị Điệp, chị Kiều, Tô Tỷ và các anh em đang trông ngóng đợi tôi ra. Dân gì đó đi cạnh tôi, nói cười luôn miệng. Sơn chạy tới hỏi:
– Ông thầy được nhận chưa, bị cái gì rắc rối mà lâu quá vậy?
Tôi đưa tay chào Sơn chưa kịp trả lời thì Dân gì đó đã vọt miệng:
– Tôi được nhận gì đó, còn ông thầy giáo bị xù rồi.
Tư Trần Hưng Đạo nói:
– Mày xù ổng chớ phái đoàn Canada đâu có xù….
Dân gì đó nghênh mặt lên hỏi:
– Ừ, ừ, tại sao anh biết ổng được Canada nhận gì đó?
– Ông thầy bị xù tại sao trong tay bà thầy lại cầm hai tấm giấy khám sức khỏe nè!
Dân gì đó bị lật tẩy cười hì hì… Cả đám bạn bè bu quanh tôi mừng rỡ hỏi thăm lăng xăng. Các em Mai, Lan hỏi:
– Anh được nhận đi tỉnh nào?
Nghe hỏi tôi chợt chưng hửng:
– Anh biết nó nhận, mừng quá quên hỏi coi đi đâu… mà thây kệ chỗ nào cũng được.
Lan nói:
– Em với chị Mai, chị Tuyết, anh Tiến được đi Ottawa.
– Hình như Ottawa là thủ đô của Canada phải không, vùng đó nói tiếng Anh mà.
– Ừ, khi vô phỏng vấn tụi em trả lời bằng tiếng Anh.
Tôi chợt nghĩ ra:
– Thôi rồi, chắc là anh không được đi Ottawa với tụi em rồi, hồi nãy anh trả lời bằng tiếng Pháp. Làm sao bây giờ, ở Canada chỉ có tỉnh Québec nói tiếng Pháp thôi. Mà Québec xa Ottawa mấy trăm cây số… làm sao mà gặp nhau được?
Tư Trần Hưng Đạo nghe anh em tôi đối đáp, xen vô:
– Hơi đâu mà lo, miễn là đi được. Còn việc thăm viếng nhau thì lâu lâu để dành tiền mua vé xe đò, gặp nhau mấy hồi. Ở xứ tự do mà, đâu cần phải xin giấy phép công an khu vực, với phường khóm, xã, huyện, gì…
Tôi đứng xuội lơ cứ tưởng hễ được đi Canada thì anh em sẽ được ở chung nhau nhè đâu lại có chuyện đứa ở tỉnh nầy, đứa ở tỉnh kia. Phải chi biết như vậy, khi mở hố sơ Cao Ủy đừng khai riêng rẻ ra làm chi.
Để chọc tôi, Tư Trần Hưng Đạo nói tiếp:
– … có điều các cô được ở thủ đô lớn sang trọng, còn bồ thì ở tỉnh lỵ xa xôi, cũng như người ở Sài Gòn, người ở Bạc Liêu, Cà Mau vậy.
Tôi cười trả lời anh:
– Tôi lo là anh em xa nhau, chớ chuyện ở thành phố lớn với thành phố nhỏ, quê mùa, đâu có gì quan trọng. Cái quan trọng là tổ chức cuộc sống mới sao cho thích hợp… sao cho có ý nghĩa… Chuyện giàu nghèo sang hèn tôi không để ý tới, mình đi tỵ nạn mà!
Tư Trần Hưng Đạo cười ha hả, ôm lấy vai tôi. Cả đám kéo nhau ra về. Con đường dọc theo mé biển, cát trắng nước xanh. Buổi chiều êm ả, lòng tôi lâng lâng theo từng đợt sóng rạt rào. Những sáng vất vả gian nan, những chiều đợi chờ mòn mõi… chỉ trong một cuộc phỏng vấn ngắn ngủi, tất cả tan biến như bọt sóng. Đại dương nào chứa hết niềm vui…
Chương 25
MỘT BÀI THƠ CHO BIDONG
Bidong sáng nay thức giấc thật sớm. Nắng chưa lên đảo đã rộn ràng. Trời mới vừa tờ mờ sáng là anh em chúng tôi đã sắp xếp thu gọn đâu vào đó, xong xuôi lục tục tay xách tay mang, ríu rít kéo nhau về phía cầu tàu. Hôm nay là ngày tôi rời đảo, cái ngày trọng đại mà người tỵ nạn Việt Nam nào cũng ước ao mong đợi. Như con chim bị nhốt chặt trong lồng sắp được đem đi thả, tôi nhìn khoảng trời cao biển rộng, cảm thấy như hai chưn sắp mọc cánh. Những vật dụng không cần thiết được bỏ lại bớt, tôi cầm cái xách tay nhỏ nhẹ thênh thênh, lòng đầy tràn niềm vui háo hức. Mùi muối biển mặn nồng lẫn trong không khí trong lành khiến tôi sảng khoái. Con đường cát trắng ven theo mé biển để ra cầu tàu, đẹp đẽ dễ thương hết sức. Mà đâu phải Bidong sáng nay, chỉ có con đường nầy dễ thương. Bidong còn có những núi đá chênh vênh hùng vĩ, những rừng cây cao san sát, những tàn dừa xanh mát, những nhánh bàng gie như chiếc dù, những dãy lều chen chúc, những đợt sóng nhấp nhô, những đám mây trôi xô dạt…. Bidong trong tôi còn có anh chị Tư Trần Hưng Đạo, Dân, Cương thủy thủ, Dân gì đó, Út Trung, Sơn, Quách Linh Họat, anh chị Thuần, chị Kiều, chị Huệ, Tô Tỷ, Hủ Tiếu, Xám Mã Chải, … tất cả đều rất dễ thương.
Tôi ngoái mắt nhìn lại lần cuối cái lều cheo leo tôi đã nương tựa trong những ngày qua. Lều nằm khuất trong con hẻm hẹp té. Một dải nước dơ xanh mốc rong rêu chảy len dưới cầu thang. Đống củi vụn lượm trên núi mấy tuần trước xài còn phân nửa, bấy nhiêu đó chắc cũng đủ cho Chiêu dùng để chờ cho tới ngày được đi Mỹ. Một chiều nào tôi đến, rồi để sáng nầy tôi đi! Trong niềm vui sướng, bất chợt tôi bịn rịn ngậm ngùi. Chiêu đi sát bên tôi, tay ôm dùm một gói nhỏ, nói:
– Em ở lại có một mình, điệu nầy phải năn nỉ Sơn hay Út Trung đến ở chung cho vui.
Tôi nghe nói cảm động:
– Nhưng Sơn có bồ rồi, không dễ gì rủ hắn, Út Trung thì chắc được… Ở đây có một mình buồn lắm!
Chiêu vốn ít nói nếu không có bạn bè đông vui thì cái lều nầy chắc trở thành cái chùa! Nó thiệt xui, hôm phái đoàn Canada phỏng vấn, trả lời trật vuột sao đó nên bị xù, đành phải chờ để đợi phái đoàn Mỹ, nếu may mắn được nhận thì sớm lắm cũng phải năm, bảy tháng nữa mới rời đảo được. Tôi đề nghị:
– Hay là em kiếm người, bán cái lều kiếm chút đỉnh tiền xài đỡ qua ngày… rồi dọn hết qua bên Út Trung, ở chung cho có bạn?
Chiêu trầm ngâm một hồi, rồi nói:
– Anh tính vậy cũng được, để thủng thỉnh em lo…
Nó trả lời, giọng buồn buồn. Tôi nhìn thấy cặp mắt hấp háy sau mặt kiếng dầy cộm. Đầu cúi xuống, nó lẳng lặng đi không nói tiếng nào. Buổi sáng nước thủy triều dâng cao, những lượn sóng lớn đánh tràn lên gần sât bờ đất, làm ướt đẫm làn cát trắng phẳng lì, xóa hết những dấu vết rác rưởi của ngày qua. Giờ nầy khu chợ trời còn vắng tanh, không khí im mát nhờ chút hơi lạnh ban đêm còn sót lại. Mấy đứa em vui mừng trò chuyện líu lo như chim, tiếng bước chưn hối hả nghe rào rào trên mặt đường. Tụi nhỏ đi lẹ quá, tôi và Chiêu bị lọt tuất ra đàng sau.
Nơi làm thủ tục rồi đảo ở bên hông trạm cảnh sát Mã Lai, cạnh cầu tàu. Có vài cái bàn được kê dưới tàn dừa, dùng để dò danh sách và kiểm sóat giấy tờ người đi. Mới giờ nầy mà người ta đông nghẹt. Mọi người đứng bên nhau trò chuyện nhắn gởi, dặn dò, tạo thành một hoạt cảnh rộn ràng. Tôi gặp lại hầu hết những bộ mặt thân yêu cùng đi chung chiếc BL 1648, họ vây quanh từ giã. Trong niềm vui của một hy vọng mới tinh khôi có xen lẫn nỗi sầu ly biệt. Cho nên trên những khuôn mặt quen thuộc, tôi thoáng thấy nét u ám ngậm ngùi. Chị Kiều bồng bé Xuân Lan tứ xa, tất tả chạy lại đưa tặng Duyên mấy gói mì Cary Koka để dành ăn đi đường. Chị Tư Trần Hưng Đạo cho Bi hai trái bôm. Út Trung đưa hai mươi đồng nhờ đánh điện tín cho một người bà con ở Longueuil Québec. Trong túi áo, túi quần tôi đầy nhóc thư từ của bạn bè nhờ gởi dùm cho thân nhân.
Chị Điệp dẫn Trung, Dung cũng vừa tới. Bữa nay Trung bận áo đàng hoàng, cũng đã hết sún răng. Lúc anh tôi bị bắt, tụi nó còn nhỏ xíu làm sao nhớ được, biết bao giờ cha con mới gặp lại nhau. Nhớ ngày nào mới đây, cha mẹ, anh em, vợ con, quây quần xum họp đông vui, chỉ một phút đất nước đổi thay, tất cả đều tan biến hết, kẻ góc biển người chưn mây, không ai biết được tương lai như thế nào!
Tôi cúi xuống ôm lấy hai đứa nhỏ dặn dò:
– Chú Tư với Bi đi Canada, hai con với mẹ ở lại, mai mốt qua Mỹ với dì Tư.. Ở đảo con phải cẩn thận nghe hôn, không được đi chơi xa, leo trèo trên rừng trên núi, khi nào đi tắm ngoài biển thì phải đi chung với mẹ hoặc cậu Bích…
Thằng nhỏ đã hiểu được cuộc chia tay sắp xảy ra ngoan ngoãn gật đầu, đứng im mặt buồn hiu, khác hẳn thường lệ. Đến giây phút nầy tôi đâm hối hạn, tại sao lại xin đi Canada để phải xa cách hết thân nhân bạn bè như vậy. Chị Điệp, vợ chồng Bích, anh chị Tư Trần Hưng Đạo, anh chị Thuần, vợ chồng Quách Linh Hoạt, Sơn, Út Trung, Tô Tỷ, Xám Mã Chải, vợ chồng Liêu Thạnh… tất cả đều kiên nhẫn chờ đợi để được đi Mỹ. Phải chi tôi cũng xin đi Mỹ! Nếu được nhận thì một ngày nào đó rời đảo cả đám, vui biết bao nhiêu! Cảnh kẻ ở người đi, lúc nào cũng buồn! Ở đời có nhiều việc xảy ra bất ngờ, mình không thể thấy trước. Hơn nữa nhiều khi, cách tôi giải quyết vấn đề cũng thường… không giống ai! Vì vậy mà cứ hết hối tiếc nầy đến hối tiếc khác, hèn chi cả một đời lận đận!
Cuộc điểm danh đã hoàn tất. Dòng người lũ lượt di chuyển dọc theo bờ cát đầy rác rến để ra cầu tàu. Thân nhân cùng bạn bè cố chen lấn đi theo một đoạn đường dài để nắm nuối tiễn đưa. Có xa cách mới biết quí những lúc gần nhau. Hàng dừa đứng lặng lẽ, những tàu lá xanh mướt lao xao trong gió như muốn từ biệt lần chót những thuyền nhân may mắn. Cảnh Bidong sáng nay khác hẳn bến Tầm Dương hiu hắt hơi thu ngàn năm trước. Ở đây chỉ có nắng và gió, không dễ gì kiếm cho ra được -phong diệp địch hoa, thu sắt sắt 1, vậy mà tôi cứ nghe tê tái bồi hồi trong từng bước đi!
Bây giờ, vây quanh tôi là những người bạn một thời gắn bó, gặp nhau trong cảnh lận đận quay cuồng, rồi tất cả sẽ phân tán ra bốn hướng như những cánh chim bay. Cảnh biệt ly thì dầu hoàn cảnh nào cũng đều đứt ruột! Biết rằng giây phút thật sự xa nhau sắp bắt đầu, tôi cố ngoái lại nhìn thật kỹ lần chót những khuôn mặt bạn bè thân thương, những người bạn đã một thời sát cánh cùng nhau chia xẻ những gian lao lẫn ngọt bùi ở miền đất lạ. Tuy biết trước sau gì cũng mỗi người mỗi ngả, nào ngờ phút giây chia tay lại đến quá sớm. Tôi nắm chặt lấy tay anh Tư Trần Hưng Đạo định nói câu từ giã, nào ngờ cái cảm xúc dâng lên như một luồng điện mạnh chạy khắp châu thân, tự dưng tôi run rẩy nghẹn ngào:
– Anh Tư… tụi mình đành phải xa nhau rồi!
Tôi ngước nhìn mặt Tư Máy cày, thấy mờ mờ, không rõ hình thù gì cả. Nước mắt đã ứa, chực trào ra khóe. Tôi cố gắng nín thở để dằn cơn xúc động. Không, tôi không khóc, không thể khóc giữa đám đông như đứa con nít. Tôi là người lớn mà. Tôi làm bộ ngước nhìn đọt dừa, cố nuốt dòng lệ nghẹn ở cổ cho chạy ngược vô trong. Xung quanh đã có tiếng đàn bà khóc. Những câu mếu máo giã từ, những lời tiễn đưa nhau nhiều nước mắt. Tư Trần Hưng Đạo cũng cảm động ói:
– Chú thím qua bển… mạnh giỏi!
Út Trung cùng Sơn buớc theo dặn dò:
– Ông thầy nhớ gởi thơ về cho tụi nầy…
Tôi không thể nói thêm được tiếng nào nữa hết, đành nhìn hai bạn mà gật đầu. Hình ảnh những đọan đường đã trải qua chợt biến chợt hiện, những ngày chờ đợi ở Bạc Liêu, đêm giã từ Cà Mau, cảnh đói khát ở Kapas. cuộc sống gian khổ ở Bidong… tất cả cùng chung kỷ niệm, cùng chung sống chết. Vậy mà giờ đây tôi được sung sướng, còn các bạn ở lại, tiếp tục kéo lê chuỗi ngày gian khổ. Tôi còn lòng dạ nào nghĩ tới niềm vui sẽ tới. Rồi đây các bạn ở lại Bidong sẽ như thế nào? Quách Linh Hoạt còn còng lưng vác những thùng hàng nặng nề vượt qua những vách đá cheo leo trong đêm hôm khuya khoắc bao lâu nữa? Út Trung, Sơn, Tô Tỷ, Xám Mã Chải… phải lặn lội leo núi đốn củi, chen lấn xách nuớc, sắp hàng trên cát nóng như thiêu như đốt để lãnh thực phẩm bao nhiêu phen! Bidong vui ít, buồn nhiều. Da người tỵ nạn sẽ mốc đen vì nắng cháy mưa dầm, tay chưn trầy xước vì gai góc đá sỏi, tim phổi đóng đầy bụi khói Bidong. Ôi! những người tỵ nạn đáng thương!
Bên cạnh, Duyên tay bồng Bi đôi mát cũng đỏ hoe vì chị Tư, chị Kiều bịn rịn. Tôi và nàng cùng đi mà không biết chưn mình đang bước, tâm trạng bồng bềnh. Chiêu cầm dùm cái xách tay, đang lầm lũi đi phía trước. Chắc nó cũng xúc động dữ lắm, đầu cúi gầm. Nó đưa anh em tôi xuống tận ghe, sắp xếp hành lý đâu đó xong xuôi, rồi mới từ giã trở về.
Ghe còn phải đợi làm thủ tục lâu lắc nên chưa mở đỏi. Tôi ngồi bên be thuyền nhìn thẳng xuống bên dưới. Nước biển buổi sáng trong veo, những tia nắng vàng nhạt long lanh chiếu sâu thăm thẳm. Tôi nhìn thấy hàng triệu triệu con cá lớn bằng bàn tay bơi lội nhởn nhơ, chúng lượn qua lượn lại đều đặn nhịp nhàng như có một động lực vô hình nào điều khiển. Trên kia dáng núi Bidong to sầm, khu định cư nhỏ xíu. Một đám khóí xám bao phủ mịt mùng dưới chưn núi trông như một đám mây mù chiều mưa. Cuộc sinh hoạt của những bạn bè thân yêu của tôi diễn ra âm thầm trong đó. Tôi chợt cảm thấy khối núi đá to sầm sập kia như đè hết sức nặng ngàn cân lên trên đám người tỵ nạn khốn khổ lúc nhúc bên dưới. Bidong thiệt gian khổ mà cũng thiệt thân thương gần gủi. Biết bao giờ tôi mới có dịp trở lại chốn nầy?
Ghe đã nổ máy sắp khởi hành. Tôi cố nhìn cho thật rõ Bidong một lần nữa.
Trời ơi! Dưới gốc dừa ở đầu cầu tàu, Chiêu vẫn còn khoanh tay đứng trơ trọi.., một mình!
°
Marang, ngày… tháng…
Anh chị Tư, Út Trung, Sơn và các bạn thân mến,
Vợ chồng tôi đã tới Marang nầy vào lúc bốn giờ chiều, được ở tạm đây nghỉ ngơi hai ngày, rồi đi tiếp tới trại chuyển tiếp Convent ở thủ đô Kuala Lampur (Convent Transit Camp) nên rán tìm cách gởi bức thư nầy về Bidong, để anh chị và các bạn, đọc cho biết đoạn đường sẽ qua của mọi người trong thời gian sắp tới. Tôi nhớ Bidong, nhớ anh chị và các bạn nhiều lắm…
Đây là cuộc di chuyển lần thứ ba trên biển. Từ Việt Nam đến đảo Kapas, từ Kapas đến Bidong. Bây giờ là từ Bidong qua Kuala Trengganu, toàn đi bằng ghe. Hai đoạn đường trên đầy nguy hiểm bất trắc mà sao tôi không cảm thấy sợ hãi. Duy có đọan đường nầy đi vào buổi sáng, chừng ba tiếng đồng hồ là tới, biển lại êm trời đẹp ghe tốt, vâỵ mà tôi lại cảm thấy sờ sợ. Có lẽ gần tới nơi an toàn rồi, rủi ro có bề gì thì uổng công toi. Cái mạng mình lúc trước là đồ bỏ, bây giờ lại thấy quí. Mà càng quí trọng lại càng sợ chết!
Cũng may sáng đó trời đẹp. Biển lấp lánh sóng bạc, chiếc ghe lướt êm xuôi. Vì ít người nên ngồi đứng thoải mái hơn trên chiếc BL1648 của anh em mình. Ghe đi dọc theo bờ biển Mã Lai. Tôi thấy từng rặng núi lướt qua, nối tiếp không dứt. Xứ Mã Lai này có lẽ chỉ toàn là núi rừng, ít đồng bằng. Độ giữa trưa thì tới Kuala Trengganu. Đó là một thị trấn cực bắc của Mã Lai, nằm ngay trên cửa sông, nhỏ nhưng xinh xắn. Nhà cửa Mã Lai màu sắc sặc sỡ, xe cộ mới tinh. Gần ba tháng nay sống xa khuất ánh sáng văn minh, bây giờ được nhìn thấy lại nhà cửa, xe cộ, điện nuớc, mừng quá. Ai nấy như mán rừng về thành phố nôn nao, sung sướng, cứ luôn miệng hít hà, nhà cao quá, xe đẹp quá, cái gì cũng mê quá trời. Còn thằng Dân gì đó, thì thôi, khỏi nói. Cái miệng nó cứ tía lia ‘gì đó’, ‘gì đó’ liên tu bất tận. Từ ngoài biển khơi ghe đâm thẳng vô cửa sông. Nơi đây có bãi cát lài ra tận ngoài xa. Cửa sông rất rộng, bề ngang chừng hai tới ba cây số. Có nhiều xác ghe tàu mục nát của Việt Nam mình nằm chơ vơ. Nhiều người đã ở đây nói rằng, có nhiều ghe vượt biên bị chìm vì không biết bãi cạn, vướng vào cồn cát. Một số bị đuổi xô ra, lật chết nhiều lắm!.
Ghe cặp vào cầu tàu bằng xi măng rất lớn. Bến cảng hoạt động rộn rịp. Trời nắng chói chang, kiếm một bóng mát không có, tất cả đứng lóng nhóng trên cầu chờ xe búyt đến đón để đi tiếp lộ trình. Chờ mãi không thấy xe đâu, tôi đành kiếm chỗ tránh nắng, ngồi núp dưới một đống ván. Cạnh bên có một cặp vợ chồng với bảy đứa con nhỏ lôi thôi, lếch thếch. Người chồng đen đúa, ăn mặc đơn sơ, người vợ dáng lam lũ vạch vú cho con bú, tay cầm nón lá quạt phành phạch. Thoáng nhìn thì có vẻ nông dân hay ngư phủ. Tôi lân la chào hỏi làm quen, biết được họ cùng đi Canada. Đợt nầy đi đông lắm vì ngoài người đi Canada, còn có nhóm đi Mỹ và Úc nữa. Lúc nhơn viên Liên Hiệp Quốc tới đón, các đại diện Việt Nam mình ra nói chuyện, nhiều người nói rất giỏi và lưu loát. Tôi rán lắng nghe mà chỉ hiểu được vài tiếng, tức mình vì quá dốt, đành quay trở về ngồi núp nắng với cặp vợ chồng nông dân kia cho đỡ quê!
Xe buýt đến. Trước khi đi, mỗi người được phát cho hai gói cơm còn nóng, đựng trong bao ny lông, có một trứng gà và một miếng gan bò luộc. Mấy hộp trà hoa cúc. Tôi đi đường còn mệt, trời lại quá nóng nên ăn không vô. Thành phố Trengganu đẹp quá, nó được cất trên một ngọn đòi. Các công viên trồng bông rất đẹp, đường xá sạch bóng, xe chạy bên trái như bên Anh. Ra khỏi thành phố, xe chạy dọc theo bờ biển. Đường ven theo chưn núi, quanh co, nhà cửa sơn màu sặc sỡ cất rải rác dọc theo hai bên đường. Ít thấy đồng bằng và ruộng lúa. Người dân quê Mã cũng ăn mặc đẹp đẽ. Xe chạy độ hai tiếng là tới Marang, ghé vào một villa rất lớn, trơ trọi giữa đồng. Đây là nơi nghỉ tạm vài ngày để đi Kuala Lampur. Tôi kiếm một phòng trống trên lầu rồi sắp xếp hành lý nghỉ ngơi. Nhà cất bằng cây rộng lớn nguy nga, chia làm mấy chục phòng. Từng trệt có nhiều giuờng đôi, sắp thành hàng dài. Thấy người ta ùa qua bên kia đường ăn hàng, mấy đứa em và Duyên cũng bắt chước nhau đi mua. Bên quán có bán chocolat sữa lạnh, cà rem, nước đá. Giá cả rất rẻ so với Bidong của mình. Đã quá, anh Tư ơi! tôi mê thiệt tình. Anh tưởng tượng đi, mấy tháng trời cả đám chết khô, bây giờ lại có nước đá lạnh. Tôi cầm chai Coca, chưa uống mà đã thấy sướng, mát lạnh cả hai tay. Thiên hạ kéo nhau đi mua rần rần. Được cái con nhỏ bán quán coi cũng ngộ hết sức. Mai mốt anh có ghé qua đây nhớ mua cà rem, nuớc đá, rồi thử nhìn coi lời quảng cáo của tôi có đúng không. Phải rán học chút đỉnh tiếng Anh nghe, tôi ham nói chuyện nên mỏi tay quá!
Ở dưới sân rộng, có cất nhiều trại nhỏ cho người ta nghỉ mát, có mắc võng ở các gốc cây, có giếng nước để uống và tắm rửa, có củi cả đống để nấu nướng, nghĩa là có đủ mọi tiện nghi cho người tỵ nạn sử dụng. Tôi đi lang thang dọc theo bờ biển nhìn tuốt ra khơi xa tít mù, thấy có một hòn đảo xanh xanh ở chưn trời. Rán nhìn cho kỹ, thấy cái cầu tàu bằng sắt sừng sững. Cái cầu tàu nầy sao quen thuộc quá. Trời ơi! anh Tư ơi, đó là cầu tàu của đảo Pulau Kapas, cái đảo Dừa anh em mình trôi dạt đến hôm nào. Kỷ niệm đâm dạt dào. Khúc phim ngày đầu tiên đến đất Mã hiện trở lại trong óc tôi. Chỗ tôi hiện đứng đây là Marang, là nơi buổi sáng ghe mình tấp vào, Chiêu và Hiếu vì lo lắng an nguy của cả ghe, lội vào bờ bị đánh đập và bị bỏ rơi. Chiếc BL 1648 trôi dạt dật dờ mãi đến chiều tối mới tấp được vô Kapas đậu cặp cầu tàu nầy. Một tháng trời anh em mình làm Lỗ Bình Sơn nơi hoang đảo với tâm trạng hoang mang chờ đợi… Bây giờ tôi đã được trở lại đây, nhìn Kapas một lần nữa, đâm nhớ và như thấy anh chị, anh chị Thuần, vợ chồng Quách Linh Hoạt, Út Trung, Sơn, Chị Điệp, chị Kiều, chị Huệ, Hủ Tiếu, Nhựt Bổn,… nói chung tất cả những người đã cùng nhau chia xẻ nỗi gian lao của chiếc BL 1648… Phải chi cả đám được đi một lượt đến đây thì vui biết bao nhiêu. Trọn cả buổi chiều còn lại, tôi nằm trên võng đong đưa dưới tàn cây râm mát, nhìn qua đảo Dừa mà ngùi ngùi…
Bãi biển chỗ nầy mọc nhiều cây phi lao và dừa. Sân cỏ đầy chim sáo mỏ vàng và mèo. Có vài xác ghe vượt biên rải rác nằm đây đó. Có lẽ cũng tại nơi nầy, Chiêu đã xúc con ruốc để phơi khô trong những ngày nó lạc loài với Hiếu ở đây. Chiều nay ăn phần cơm phát buổi trưa, có thêm canh cải bẹ xanh nấu với dầu dừa, hôi hôi mà đói quá cũng rán nuốt…
Lúc đó tụi em đi chơi vẩn vơ có dịp nói chuyện với cặp vợ chồng lam lũ bảy con kia. Lúc đó tụi nó mới té ngửa, người chồng là giám đốc một công ty ngoại quốc nổi tiếng ở Sài Gòn, vợ là chuyên viên bộ Kinh Tế. Hai vợ chồng từng du học ở Toronto Canada trên tám năm. Vậy mà từ đầu đến cuối không hề nghe hai người nói một câu tiếng Tây hay tiếng Anh nào. Ai nghe qua cũng ngẩn ngơ kính phục. Công phu hàm dưỡng của hai người thiệt cao cường. Rồi tôi ngẫm nghĩ tự xấu hỗ. Bản thân mình dốt rồi cứ tưởng ai cũng dốt như mình! Tôi lại được dịp làm quen với cặp vợ chồng nầy, biết được nhiều chuyện thú vị của xứ Canada. Các câu chuyện trong trại tỵ nạn thì không bao giờ dứt được.
Ngày hôm sau tôi qua phòng chung của trại, thấy trên bàn có cuốn báo Văn Nghệ Tiền Phong, số Tân Niên 1979. Buồn ngủ gặp chiếu manh, tôi cầm tờ báo đọc ngấu nghiến. Lật tới lật lui gặp được bài thơ hay, tựa là Ta Đã Tới của tác giả Đăng Trình. Tôi đọc cho cả đám nghe, ai nấy đều xúc động ngậm ngùi. Chuyện người tỵ nạn ở Bidong chỉ biết ‘thương một đời hai chữ Việt Nam thôi’ Tâm sự của tác giả mà cũng là tâm sự của anh em mình… Tiện đây tôi chép lại để anh chị và các bạn đọc cho qua những ngày dài chờ đợi.
TA ĐÃ TỚI
Ta đã tới dung thân miền đất lạ
Chiều Pulau lồng lộng gió bi thương
Lòng gặp lòng sao nhớ quá quê hương
Lỡ đánh mất sau lưng đời phiêu bạt
Ôi! Mẹ già chiều Trường Sơn lây lất
Ôi! Đất cha khoai sắn độn từng ngày
Ôi! Đướng xưa máu nhuộm tóc thơ ngây
Giặc đã đến dựng công trường tập thể
Tuổi trẻ không trường, nhà buôn thiếu chợ
Quê hương mình xa xót lắm người ơi!
Nghĩa sống gì đâu khi mất cuộc đời
Giặc cướp trọn trong vòng tay sắt máu
Lớn bé trẻ già bỏ nơi nương náu
Ngày thâu đêm quần quật đói từng cơn
Thân làm bia đầu đội đạn tủi hờn
Thương quá thôi -bạn bè ơi biền biệt
Giặc trả thù có mấy ai được biết
Lần ra đi là trăm vạn ngày thương
Buồn nào hơn người vợ trẻ khóc chồng
Tim thắt héo chạy theo nguồn dư lệ
Khổ nào hơn mẹ già nua kể lể
‘Suốt cả đời mới gặp cảnh tang thương
Sống quê hương chịu chết một quê hương’
°
Ta đã tới dung thân miền đất lạ
Nghe ngậm ngùi thương tiếc một tình quê
Nghe hồn đau chia cắt mấy dặm về
Mà rưng rức lệ hờn căm tê tái
Ai ra đi không thương người ở lại
Nơi quê nghèo rách áo cả đói cơm
Đất của ta sống tủi nhục gông cùm
Nước của ta mà ba miền ruột cắt
Kẻ tới người đi pha mùi nước mắt
Chuyện ba năm ấp ủ mấy đau buồn
Những đầu xanh héo úa tự buổi non
Và tuổi bạc chìm sâu vào sức sống
Ta đã tới miền hồi sinh sống động
Đi trên hoa nghe lá gọi Sài Gòn
Nghe trong hồn rạo rực chút héo hon
Như vỡ lỡ cả muôn trùng sóng dậy
Huế -Sài Gòn -Hà Nội xa lạ mấy
Đến bao giờ nối lại một cầu thương?
°
Ta đã tới dung thân miền đất lạ
Tình bao la trang trải mấy cho vừa
Như dòng sông nhơ nhớ mãi nguồn xưa
Như mây biếc ôm khung trời tưởng vọng
Dù vai đời mang hai dòng ý sống
Ta vẫn hoài đan dệt mộng quê hương
Vẫn thương em cách biệt lắm dặm trường
Ghi dấu mãi ngày đầu tiên xa xứ
Ta nằm lại bên bờ thương bến lạ
Giương ngọn cờ bất khuất mãi trong tay
Lửa sụt sôi tim mắt sáng từng ngày
Lòng hướng tới chan đầy bầu nhiệt huyết
Thương một đời hai chữ Việt Nam thôi.
Malaysia 11, 1978
Đăng Trình
(trong Văn Nghệ Tiền Phong, Số Tân Niên 1979)
Cái điệu nầy chắc cả đời, dầu trôi giạt đến tận đâu di nữa, tôi cũng không quên được những ngày tháng ở Bidong của anh em tụi mình, anh Tư ơi!
Thương mến,
.
Võ Kỳ Điền
________________
1. Trích trong Tỳ Bà Hành, Đường Thi Tam Bách Thủ, thất ngôn cổ thi của Bạch Cư Dị. Phan Huy Vịnh dịch: Quạnh hơi thu, lau lách đìu hiu.
Đường Thi của Trần Trọng Kim ghi là :Phong diệp lô hoa thu sắt sắt.
(nguồn: vokydien.blogspot.com)
Bạn phải đăng nhập để bình luận.