Nguyên Lạc Biên khảo

tacgia

.

QUẺ DỊCH: CÁCH LẬP VÀ GIẢI ĐOÁN (7)

.

Phần IV

LẬP VÀ GIẢI QUẺ CHO VIỆT VƯƠNG CÂU TIỄN

.

Lời nói đầu:

Đây là bài cuối của loạt bài Quẻ Dịch, được xem như bài “ôn tập”, nhắc lại những gì chúng ta đã học được từ tiền nhân. Nó cũng có thể xem như “bài minh họa” cách lập và giải đoán Quẻ Dịch mẫu, hy vọng các bạn tìm được vài điều hữu ích.

Xin thưa trước, chuyện Việt Vương Câu Tiển là sử thật thời Chiến Quốc, phần gieo lập Quẻ Dịch và giải đoán chỉ là hư cấu – Nguyên Lạc

.

Lời dẫn nhập:

“Kinh Dịch là thứ sách vì hạng quân tử mà làm ra, không phải là của hạng tiểu nhân. Trương Hoành Cừ nói: “Kinh Dịch chỉ mưu tính cho quân tử, không mưu tính cho tiểu nhân”.

Kinh Dịch là thứ sách do sự hư không làm ra. Trước khi chưa có hào vạch, Dịch thì là một lẽ hồn nhiên, ở người ta là tấm lòng im lặng. Đến khi đã có hào vạch, mới thấy hào ấy là thế nào, hào kia là thế nào. nhưng mà vẫn theo những cái rỗng, tĩnh ấy làm ra Tượng Số. Vì vậy nó mới linh thiêng!.

Trong Kinh Dịch, đại khái Dương thì lành (tốt) mà Âm thì dữ (xấu). Đôi khi cũng có Dương dữ mà Âm lành! Tuy nhiên, vì có việc nên làm, cũng có việc không nên làm. Nên làm mà không làm, không nên làm mà cứ làm, thì dù Dương cũng xấu. Trong Kinh Dịch, hào Dương phần nhiều lành, hào Âm phần nhiều dữ! Tuy nhiên, cũng cần phải xem ngôi vị của chúng ra sao!

Trong Kinh Dịch, chỉ có “trinh cát”, chưa có chỗ nào không “trinh” mà “cát”; chỉ nói “lợi trinh”, chứ chưa từng nói “lợi bất trinh”. Như quẻ Kiền (Càn) tốt lắm, nhưng mà ở dưới lại nói “lợi trinh”. Nghĩa là ngay thẳng, trung chính thì lợi, không ngay thẳng, trung chính thì không lợi.

Coi Dịch nên dựa chắc vào Tượng mà coi. Xét Tượng Số (Thoán tượng) đích đáng trước, sau đó mới nói Lý (Thoán truyện, Thoán từ). Nhờ vậy mới khỏi sai lệch. Nếu không, việc không có thực chứng thì cái Lý suông dễ sai.

Kinh Dịch nên đọc lúc lòng mình trống rỗng, không nên giữ ý kiến riêng. Cần phải giữ cho lòng mình sáng sủa, êm ả, yên lặng, thì tự nhiên đạo lý lưu thông, mới bao quát được rất nhiều nghĩa lý.

Xem Kinh Dịch phải bốn ngày xem một quẻ: một ngày xem lời Quẻ (Thoán Tượng, Thoán từ) , hai ngày xem sáu hào ( Hào từ) và một ngày xem tổng quan (gồm tất cả lại) mới tinh tường!

Kinh Dịch đại khái muốn cho người ta tu tỉnh!. Học Kinh Dịch không phải đợi khi gặp việc mới xem, mới sợ! Ngay những lúc an bình, cũng nên nghiền ngẫm những đạo lý của nó , so với địa vị của mình hiện tại , suy ra nên hành xử thế nào cho thích đáng. Cho nên: “Lúc ở yên thì xem Tượng mà ngẫm Lời , lúc hành động thì xem sự biến đổi mà ngẫm lời chiêm đoán ”.(Kinh Dịch – Ngô Tất Tố)

Trên đây là những lời người xưa đã dặn dò, chúng ta nên thuộc nằm lòng khi nghiên cứu về Dịch.

.

NƯỚC VIỆT CỦA CÂU TIỄN

.

Năm Tân Mùi 770 Tr.cn, nhà Chu ngày càng suy yếu, vua nhà Chu lúc bấy giờ là Chu Bình Vương dời đô sang Lạc Ấp, nội bộ cung đình thường xảy ra tranh chấp thế lực, . Vì vậy mà các nước chư hầu không chịu triều cống cho vua nhà Chu như thường lệ: 3 năm một lần triều cống lễ vật nhỏ, và 5 năm triều cống lễ vật lớn. Một số nước chư hầu còn cả gan lấn chiếm lãnh địa của nhà Chu.

Trong khi đó về phần các nước chư hầu thì ra sức củng cố thế lực, tiến hành chiến tranh thôn tính lẫn nhau rất ác liệt, và trong đó có 5 nước lớn là Tề, Tấn, Tần, Tống, Sở thôn tính nhiều nước nhỏ xung quanh và trở thành những nước mạnh nhất thời bấy giờ, mà sử thường gọi là thời kỳ “Ngũ bá” trong suốt cả một thời gian dài. Về sau còn thêm nước Ngô và nước Việt ở phía Nam sông Dương Tử, tạo nên thất hùng (7 nước hùng cường) một thời.

Cuối thời Xuân Thu, vua nước Ngô là Hạp Lư dùng một vong thần của nước Sở là Ngũ Tử Tư, Ngũ Tử Tư làm tướng quốc của nước Ngô, vì có thù riêng với vua của nước Sở đã giết cha và anh trai của mình, cho nên Ngũ Tử Tư ra sức giúp vua Ngô là Hạp Lư, đem quân đánh nước Sở, giành được đại thắng, oai danh lừng lẫy. Sau khi đánh thắng nước Sở, Hạp Lư lại tiếp tục đem quân đi đánh nước Việt của Câu Tiễn (Câu Tiễn làm vua từ năm 502 Tr.cn – 462 Tr.cn) Câu Tiễn thân chinh đem quân ra chống đỡ, quân Ngô thua to, vua Hạp Lư chết.

Cháu đích tôn của Hạp Lư là Phù Sai lên nối ngôi, Phù Sai luôn luôn ghi nhớ mối thù với nước Việt, nên sai Ngữ Tử Tư và Bá Hỷ ngày đêm ráo riết luyện tập quân sỹ, chờ sau 3 năm hết tang của Hạp Lư, liền đem đại binh đến đánh nước Việt. Quân nước Việt bị thua to, Câu Tiễn xin giảng hòa với nước Ngô. Phù Sai đồng ý, nhưng bắt Câu Tiễn phải sang nước Ngô làm con tin. Vợ chồng Câu Tiễn và Phạm Lãi sang nước Ngô làm con tin, còn nước Ngô thì giao lại cho Văn Chủng trông coi.

Tròn đúng 10 năm sau, Phù Sai cảm động sự “trung nghĩa”của Câu Tiễn, như đã nếm phân trị bệnh cho mình, nên đã cho Câu Tiễn trở về làm vua nước Việt.

Nhớ hận thua trân và bị nhục, Câu Tiễn về nước ngày đêm huấn luyện binh sỹ chờ ngày phục hận. Trong khi đó Phù Sai suốt ngày chỉ lo ăn chơi hưởng lạc xa xỉ như cho xây dựng Cô Tô Đài.

Câu Tiễn còn tìm kiếm rất nhiều mỹ nữ ở trong nước để dâng cho Phù Sai hưởng lạc. Trongsố các mỹ nữ đó, có Tây Thi (người đầu tiên trong tứ đại mỹ nhân của Trung Quốc) và Trịnh Đán. Sau 3 năm huấn luyện, hai mỹ nhân đó đủ sức làm lung lay nước Ngô.

Từ khi có được người đẹp Tây Thi, Phù Sai suốt ngày mê mẩn người đẹp, chìm đắm trong tửu sắc, không còn chú ý đến việc triều chính nữa. Câu Tiễn thấy nước Ngô ngày càng lụn bại, nên quyết định mang quân sang tiêu diệt nước Ngô. Hai bên giao chiến, quân Phù Sai thua to. Sau Phù Sai đâm cổ tự tử, nước Ngô bị nước Việt chiếm đóng.

Nước Việt của Câu Tiễn càng ngày hùng mạnh tung hoành khắp giải Giang – Hoài, các nước chư hầu đều thừa nhận nước Việt của Câu Tiễn là bá chủ.

Sau khi công thành doanh toại, Câu Tiễn bắt đầu kiêu ngạo, và có ý diệt trừ các công thần. Phạm Lãi là người biết nhìn xa trông rộng, biết được tâm địa hiểm độc của Câu Tiễn, vì vậy Phạm Lãi có khuyên Văn Chủng nên cùng mình bỏ nước Việt, nhưng Văn Chủng đã không nghe theo lời của Phạm Lãi. Phạm Lãi đã cáo quan và về sau đã trở thành một thương nhân nổi tiếng trong thời Chiến Quốc. Rất nhiều tướng giỏi, công thần của nước Việt bị Câu Tiễn sát hại, hoặc họ tìm cách trốn đi, cho nên nước Việt ngày càng suy yếu, và Câu Tiễn cũng không còn giữ dược địa vị bá chủ chư hầu.

Ngoại sử: Thấy Câu Tiễn đối xử tàn bạo với dân chúng, để khuyên ngăn, Văn Chủng giới thiệu Câu Tiễn một nhà bói Dịch nổi tiếng đến lập quẻ cho nước Việt, tìm cớ giải thích điều hay lẽ thiệt. Nhưng Câu Tiễn không nghe theo lời can gián. Cuối cùng Văn Chủng đã được Câu Tiễn ban cho thanh gươm để tự tử.

Năm 462 Tr.cn, Câu Tiễn chết, ngay sau đó nước Việt liền bị nước Sở tiêu diệt, và trở thành quận Giang Đông của nước Sở.

(Việt Câu Tiễn không là tổ tiên của Việt chúng ta. – Hà văn Thùy)

.
LẬP QUẺ DỊCH

.

Đây là kết quả lập và giải quẻ của nhà bói Dịch (tiến hành lập quẻ bằng 50 que cỏ thi) cho nước Việt của Câu Tiễn.

Kết quả:
– Hào sơ (1) tổng số 3 lần là: 8
– Hào nhị (2) tổng số 3 lần là: 8
– Hào tam (3) tổng số 3 lần là: 8
– Hào tứ (4) tổng số 3 lần là: 7
– Hào ngủ (5) tổng số 3 lần là: 7
– Hào thượng (6) tổng số 3 lần là 7

.

Theo các bạn vẽ được các vạch như thế nào? Và quẻ (trùng) đó là quẻ gì?

Căn cứ vào Bảng Bói ở bài 3, ta biết được: 8 là thiếu âm (tĩnh) và 7 là thiếu dương (tĩnh), và sấp lần lượt từ dưới lên trên, từ 1 lên 6, ta được quẻ 12: THIÊN ĐỊA BĨ

12 THIÊN ĐỊA BĨ (2)

(Hình 1 quẻ THIÊN ĐỊA BĨ ): Càn ngoại, Khôn nội.

GIẢI QUẺ

.

Nhà bói Dịch giải đoán:
— Đây là một quẻ xấu!

Tượng: Càn Dương (trời) ở trên, Khôn Âm (đất) ở dưới. Trời nhẹ bay lên, đất nặng đi xuống: Trời đất cách tuyệt, không giao với nhau, cho nên là bĩ. (Về lý: Xét Quẻ phải xét từ Nội Quái lên Ngoại Quái: Đất đè trời! Nghịch lý – Nguyên Lạc)

Thoán từ: – Bĩ chi phỉ nhân. Bất lợi quân tử trinh, đại vãng tiểu lai.
Dịch nghĩa. – Bĩ đấy (?) chẳng phải người. Chẳng lợi cho sự chính bền của đấng quân tử, lớn đi nhỏ lại.

.

GIẢI NGHĨA

.
Truyện của Trình Di. – Trời đất giao nhau mà muôn vật sinh ở bên trong, rồi sau mới đủ ba Tài. Trời đất không giao nhau, thì không sinh ra muôn vật, ấy là không có đạo người, cho nên nói là “phỉ nhân” ( không phải đạo người). Trên dưới phải giao thông, cứng mềm phải hoà hợp: đó là đạo đấng quân tử. Cuộc bĩ thì trái hẳn thế, cho nên không lợi cho người quân tử. Trinh tức là chính đạo của đấng quân tử, bị bĩ tắc mà không thực hành được, lớn đi nhỏ lại, tức là Dương đi mà Âm lại. Đó là tượng “đạo kẻ tiểu nhân lớn lên, đạo người quân tử tiêu đi”, cho nên là bĩ.

.

LỜI KINH

.
Thoán từ viết: Bĩ chi phỉ nhân, bất lợi quân tử trinh, đại vãng tiểu lai, tắc thị thiên địa bất giao nhi vạn vật bất thông dã; thượng hạ bất giao nhi thiên hạ vô bang dã, nội Âm nhi ngoại Dương, nội nhu nhi ngoại cương, nội tiểu nhân nhi ngoại quân tử, tiểu nhân đạo trưởng! Quân tử đạo tiêu dã.

Dịch nghĩa: – Lời Thoán từ nói rằng: Bĩ đấy? Chẳng phải đạo người, chẳng lợi cho sự chính bền của đấng quân tử, lớn đi nhỏ lại, thì là trời đất không giao nhau mà muôn vật không thông vậy; trên dưới không giao nhau mà thiên hạ không có nước vậy; trong Âm mà ngoài Dương, trong mềm mà ngoài cứng, trong kẻ tiểu nhân mà ngoài đấng quân tử, ấy là đạo kẻ tiểu nhân lớn lên, đạo đấng quân tử tiêu đi vậy.

Truyện của Trình Di: – Khí của trời đất không giao nhau, thì muôn vật không có lẽ sinh thành; nghĩa của kẻ trên người dưới không giao nhau thì thiên hạ không có đạo an bang. Người trên thi hành chính sự để trị dân, dân nương theo mệnh lệnh, trên dưới giao nhau là để làm việc chính trị. Nay trên dưới không giao nhau, ấy là thiên hạ không có đạo an bang. Âm mềm ở trong, Dương cương ở ngoài, đấng quân tử đi ở phía ngoài, kẻ tiểu nhân lại ở phía trong, đó là lúc đạo kẻ tiểu nhân lớn lên, đạo đấng quân tử tiêu đi.

Quẻ Bĩ ngược với quẻ Thái (sẽ xét ở dưới), quẻ Bĩ dương trên âm dưới, dương bay đi, âm xuống dưới, âm dương rời xa nhau là âm dương cách tuyệt. Giống như người sống còn ở dương gian, còn người chết về nơi âm phủ. Quẻ này đạo quân tử tiêu vong còn đạo tiểu nhân mạnh lên, đó là âm đang dần thắng.

Thường thì quẻ tĩnh ta thường xét Tượng Quẻ , Thoán Tử, ít xét tới Hào Từ; nhưng nếu có xét, thì ta thấy cặp 2-5 tương ứng cũng không tốt. Hào 2 là âm nhu, yếu mềm của người dưới không dám khuyên ngăn người trên nghiêm khắc, cứng rắn của Hảo 5 dương (xem lại sự tương ứng của các Hảo ở bài 2)

.

CHUYỂN ĐỔI QUẺ

.
1. Lập quẻ cho đất nước mà gặp quẻ xấu, rất buồn. Nhưng người xưa thường nói: “Hết cơn bĩ cực tới hồi thới lai”. Thới lai đó chính là Quẻ 11: Địa Thiên THÁI

Thử xét Quẻ THÁI này xem sao!

11. ĐỊA THIÊN THÁI

11 ĐỊA THIÊN THÁI (2)

(Hình 2 quẻ ĐỊA THIÊN THÁI): Khôn ngoại, Càn nội.

Tượng: Nó là quẻ Khôn (Âm) ở trên. Càn (Dương) ở dưới (ngược với quẻ Bĩ). Đất nặng từ trên đi xuống, trời nhẹ từ dưới bay lên: Khí của trời đất Âm Dương giao nhau mà dung hoà, thì muôn vật sinh thành, cho nên mới là thông thái. Thái tức là thông thái. (Về lý: Xét Quẻ phải xét từ Nội Quái lên Ngoại Quái: Trời phủ ôm đất: Thuận lý – Nguyên Lạc)

Thoán từ: – Thái, tiểu vãng, đại lai, cát hanh.
Dịch nghĩa: – Quẻ Thái, nhỏ đi, lớn lại, lành tốt hanh thông.

GIẢI NGHĨA

Truyện của Trình Di: – Nhỏ là Âm, lớn là Dương, “đi” là đi ra ngoài, “lại” là ở bên trong, khí Âm hạ xuống, khí Dương bốc lên, tức là giao nhau. Âm Dương lợi xướng thì muôn vật được sống thỏa , ấy là trời đất thông thái. Nói về việc người, thì lớn là đấng quân thượng, nhỏ là kẻ thần hạ. Vua thành thật dùng kẻ dưới, bề tôi hết lòng thành thật để thờ vua, chí của kẻ trên người dưới thông nhau, ấy là cuộc thái của triều đình. Dương là quân tử, Âm là tiểu nhân, quân tử lại ở bên trong, tiểu nhân đi ở bên ngoài; quân tử được ngôi, tiểu nhân ở dưới, ấy là cuộc thái của thiên hạ. Đó là đạo của cuộc thái, tốt mà lại hanh thông.

2. Từ quẻ BĨ (xấu) muốn biến thành quẻ THÁI (tốt) thì cả Nội Quái và Ngoại Quái của quẻ BĨ phải cùng nhau biến:

– Khôn (Nội Quái) biến thành Càn
– Càn (Ngoại Quái) biến thành Khôn

Trên và dưới bắt buộc phải biến nếu muốn thành Quẻ tốt.

Nói rộng ra, đấng quân thượng (người cầm quyền: trên) và kẻ thần hạ (người dân: dưới) phải biến để được cuộc thái của thiên hạ , đất nước được thái bình, an lành thịnh vượng. Chữ BIẾN bây giờ thường được gọi với ngôn ngữ hiện tại là Cải Cách, Cách Mạng . Biển có thể tự thân, tự mình (bên trong) hoặc do bên ngoài tác động. Thường tự bên trong thì tốt hơn, it xảy ra việc tiêu cực.

Có hai trường hợp trung gian có thể xảy ra:

– Nội Quái biến nhưng Ngoại Quái không biến

– Nội Quái không biến nhưng Ngoại Quái biến

Hãy lần lượt xét:

1. Nội Quái biến nhưng Ngoại Quái không biến

Nội Quái Khôn âm khi biến sẽ thành Càn dương, lúc đó Quẻ Bĩ biến ra thành quẻ 1: Thuần Càn.

1. THUẦN CÀN

1 THUẦN CÀN (2)

(Hình 3 quẻ THUẦN CÀN)

.

Tượng của quẻ Càn là trời

Thoán từ: càn nguyên, hanh, lợi, trinh
Dịch nghĩa: quẻ Càn đầu cả, hanh thông, lợi tốt, chính bền.

GIẢI NGHĨA: Văn Vương cho rằng, bói được quẻ này thì tốt. Hanh thông có lợi và tất giữ cho được tới cùng, nhưng cần phải chính bền vững. Quẻ Càn có tượng của người quân tử có năm đức tính lớn. Đó là: Nhân-Lễ-Nghĩa-Trí-Tín.

Quẻ Càn là quẻ tốt, tuy không bằng quẻ Thái

Như ta đã biết ở bài 2: Cặp hào ứng 2‐5 quan trọng nhất, hai hào đều đắc trung cả, mà hào 5 lại ở vào địa vị cao nhất. Nếu hào 5 là âm (nhu), hào 2 là dương (cương) thì tốt (Thí dụ quê Thái) Nếu hai hào ứng mà thể giống nhau (cùng dương hoặc cùng âm cả) thì có khi kỵ nhau chứ không giúp nhau. Trong trường hợp quẻ Thuần Càn nảy, cả hai đều dương (cương), nên sự va chạm tiêu cực sẽ xảy ra. Kẻ thần hạ: Nội Quái (người dân: dưới) biến mà đấng quân thượng: Ngoại Quái (người cầm quyền: trên) không chịu biến thì đương nhiên sự va chạm phải xảy ra thôi. Nội Quái, là gốc, sẽ thắng ngọn Ngoại Quái, để tiến tới trùng quẻ Thái đúng theo tinh thần của Dịch, không lâu thì mau thôi. Tuy nhiên những va chạm tiêu cực sẽ xảy ra rất đáng tiếc.

.

2. Nội Quái không biến nhưng Ngoại Quái biến

Ngoại Quái Càn dương khi biến sẽ thành Khôn âm, lúc đó Quẻ Bĩ biến thành quẻ 2: Thuần Khôn.

2.THUẦN KHÔN

2 THUẦN KHÔN (2)

(Hình 4 quẻ THUẦN KHÔN)

.

Tượng của quẻ Khôn là đất. Có trời có đất rồi vạn vật mới sinh, trời là vô hình, đất là hữu hình.

Thoán từ: – Khôn nguyên hanh, lợi tẫn mã chi trinh. Quân tử hữu du vãng. Tiên mê, hậu đắc, chủ lợi. Tây Nam đắc bằng, Đông Bắc táng bằng, an trinh, cát.
Dịch nghĩa: – Quẻ Khôn: đầu cả, hanh thông, lợi về nết trinh của ngựa cái. Quân tử có sự đi. Trước mê, sau được. Chủ về lợi. Phía tây nam được bạn, phía Đông Bắc mất bạn. Yên phận giữ nết trinh thì tốt.

.

GIẢI NGHĨA

.
Truyện của Trình Di. – Khôn là quẻ đối nhau với Càn, bốn đức tính giống nhau, mà về thể “trinh” thì khác nhau. Càn lấy chính bền còn Khôn thì mềm thuận là trinh. Ngựa cái là giống có đức mềm thuận mà sức đi khỏe, cho nên dùng tượng của nó, gọi là “nết trinh của ngựa cái”. Việc làm của đấng quân tử mềm thuận mà lợi và trinh, đó là hợp với đức tính của Khôn. Âm phải theo Dương, phải đợi xướng rồi mới họa theo. Âm đi trước Dương tức là mê lẫn, phải ở sau Dương mới đúng lẽ thường. Chủ về lợi, nghĩa là lợi cho muốn vật đều chủ ở Khôn. Vì cuộc sinh thành đều là công của đất cả. Đạo bầy tôi cũng vậy, vua sai tôi làm, vất vả làm là cái chức trách của kẻ làm tôi. Công của Khôn cũng lớn như Càn, chỉ có Khôn phải sau Càn, phụ thuộc vào Càn. Người quân tử thế thiên hành đạo, khi vào địa vị của quẻ Khôn thi phải tuỳ thuộc vào người trên mà làm việc, không nên khởi xướng để tránh lầm lẫn, như thế ắt thành công.Tây Nam là phương Âm, Đông Bắc là phương Dương. Âm phải theo Dương, lìa bỏ bầy loại của nó mới có thể làm nên công cuộc hoá dục, mà được cái tốt trong việc yên phận giữ nết trinh. Nghĩa là đúng với lẽ thường thì yên, yên với lẽ thường thì trinh, cho nên mới tốt.

Quẻ Thuần Khôn này cũng là quẻ tốt như quẻ Thuần Càn. Cặp hào ứng 2‐5 vì cùng âm (nhu), cũng có va chạm, nhưng vì là nhu nên sự tiêu cực không mạnh lắm. Đấng quân thượng: Ngoại Quái (người cầm quyền: trên) dương cương trong quẻ Bĩ tự biến thành âm nhu (trong quẻ Khôn), biết thay đổi và lắng nghe kẻ dưới; dù kẻ dưới có âm nhu thì rồi cả hai cùng thuận hòa, dịch chuyển theo tinh thần của Dịch.
Xét kỹ, chúng ta thấy rõ ràng là hai trường hợp trung gian này cũng tốt hơn rất nhiều so với tình trạng của quẻ Bĩ.

Nhưng chúng ta chắc ai cũng mong muốn được quẻ THÁI – an lành thịnh vượng. Muốn thế, cả hai Nội Quái và Ngoại Quái – người trên và kẻ dưới phải cùng nhau biến, thay đổi (Cải Cách, Cách Mạng nếu ta gọi theo từ hiện đại). Mong lắm thay!

.

LỜI KẾT

.
Qua 7 bài Quẻ Dịch, Nguyên Lạc tôi đã chia sẻ với các bạn những gì mình đã học từ các thầy, các bậc cao minh về Dịch, mong các bạn tìm thấy được ít nhiều điều hữu ích. Nếu không, coi như ” Mua vui cũng được một vài trống canh”

Chào thân ái với lời chúc tốt đẹp nhất cho đất nước và các bạn.

Nguyên Lạc
…………………..

Tham Khảo: Nguyễn Hiến Lê, Ngô Tất Tố, Richard Wilhelm, Kiều Xuân Dũng, Đông A Sáng, Wu Wei, Internet, Facebook…

* Nếu vì trục trặc in ấn, các hình Quẻ trông không rõ, xin các bạn tham khảo lại hình tại: “Danh sách 64 quẻ trong Kinh Dịch” ở bài 2 hoặc bài 3.

Đăng bởi nguyenlacthovan

Sinh tiền bất tận tôn trung tửu Tử hậu thùy kiêu mộ thượng bôi (Nguyễn Du)